Thiết lập mô hình khí hậu Việt Nam
Mới đây, Chương trình GEMMES Việt Nam (GEMMES) đưa ra thông tin trong báo cáo “Biến đổi khí hậu tại Việt Nam: Tác động và thích ứng”. Báo cáo từng được trình bày tại Hội nghị COP26 và trong năm 2022, AFD sẽ tổ chức chuỗi Hội thảo trực tuyến, nghiên cứu chuyên đề nhằm thảo luận về những đánh giá trong báo cáo này.
Biến đổi khí hậu đang gây nhiều tác động đến Việt Nam.
Cụ thể, các nhà nghiên cứu của GEMMES đã sử dụng bộ dữ liệu mới nhất từ Chương trình Nghiên cứu Khí hậu Thế giới để thiết lập mô hình khí hậu Việt Nam theo một số kịch bản chính sách khí hậu.
Kịch bản giả định rằng các nỗ lực toàn cầu hiện nay về giảm phát thải khí nhà kính không được đáp ứng, biến đổi khí hậu không được ngăn chặn, nhiệt độ tại Việt Nam có thể tăng lên đến 6 độ C vào cuối thế kỷ 21, gây ra những hậu quả trầm trọng cho con người và môi trường. Nếu các cam kết của Thỏa thuận Khí hậu Paris đạt mục tiêu, Việt Nam vẫn sẽ trải qua mức tăng nhiệt tối thiểu là 1,3 độ C.
Có thể nói, đây là nguy cơ hiện hữu bởi theo đánh giá mới nhất của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC), sự nóng lên trong giai đoạn 2021-2040 rất có khả năng vượt quá 1,5°C. Nếu thế giới tiếp tục không làm gì hoặc hành động chậm như hiện nay, sự nóng lên toàn cầu có thể tăng lên 3,3-5,7°C vào cuối thế kỷ 21. IPCC kêu gọi, những việc các quốc gia cần làm ngay lúc này là lập tức thực hiện cắt giảm khí nhà kính, thúc đẩy nhanh việc áp dụng các công nghệ loại bỏ carbon để hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu ở giới hạn tối thiểu 1,5°C.
Ở Việt Nam, các nhà khoa học của GEMMES cảnh báo rằng mức nhiệt tăng cực đoan này có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản lượng nông nghiệp, phá huỷ nhiều thành phố và làng mạc. Nhiều khu vực đứng trước nguy cơ phải hứng chịu thảm họa thiên nhiên ngày một tăng về cả số lượng và mức độ nghiêm trọng.
PGS.TS Ngô Đức Thành, Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội, một trong những nhà khoa học tham gia xây dựng báo cáo GEMMES cho biết: “Khi nhiệt độ trung bình tăng nhanh, chúng ta sẽ sớm chứng kiến những hiện tượng cực đoan mới gây ra bởi thời tiết nắng nóng.
Nếu trước đây, 35 độ C được coi là một mức nhiệt độ cao, thì trong tương lai, nó sẽ trở thành mức bình thường với sự xuất hiện của các mức nhiệt mới cao hơn là 40 hoặc 45 độ C. Điều này có thể dẫn đến những hậu quả nguy hiểm đối với cuộc sống và môi trường sống của con người nếu chúng ta không tìm cách thích ứng đủ nhanh với những thay đổi của khí hậu”.
Đề cập đến các tác động kinh tế - xã hội của biến đổi khí hậu lên một số ngành chính của nền kinh tế Việt Nam (nông nghiệp và năng lượng) và một số vấn đề chính của xã hội (sức khỏe và chất lượng lao động), GEMMES nhận định, biến đổi khí hậu sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng dài hạn của Việt Nam trong những thập kỷ tới và cần được nghiên cứu cẩn trọng hơn.
Các chính sách thích ứng
Mặc dù, Chính phủ đã có những nỗ lực đáng kể trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu trong 10 năm qua, nhưng kết quả vẫn còn hạn chế. Nguyên nhân đến từ các thách thức về việc thiếu nguồn lực kỹ thuật và tài chính cho thích ứng, nhu cầu tăng cường các hỗ trợ nhằm nâng cao năng lực cho các địa phương, sự cần thiết phải tập trung giải quyết những nguyên nhân sâu xa của tình trạng dễ bị tổn thương và việc lồng ghép biến đổi khí hậu vào hệ thống thể chế một cách toàn diện.
Báo cáo của GEMMES từng được trình bày tại Hội nghị COP 26
Trong ngắn hạn, các chính sách thích ứng nên được phát triển theo ít nhất ba định hướng. Đầu tiên là tăng cường thu thập dữ liệu và đảm bảo tính sẵn có về dữ liệu. Các hệ thống dự báo thời tiết và cảnh báo sớm, và nâng cao nhận thức về thích ứng vẫn cần thiết để cải thiện các hành động phòng ngừa và thích ứng chủ động. Sự sẵn có các dữ liệu thống kê có chất lượng cũng rất quan trọng để hiểu được vai trò của tài chính khí hậu.
Cho đến nay, các công cụ hiệu quả và hệ thống toàn diện để giám sát và đánh giá một cách nhất quán vấn đề tài chính cho thích ứng vẫn còn thiếu. Do đó, việc đo lường hiệu quả của các chính sách thích ứng và tác động của tài chính cho thích ứng còn gặp nhiều khó khăn.
Mặt khác, sự thiếu nhất quán trong các hệ thống báo cáo và việc không có một định nghĩa rõ ràng về tài chính cho thích ứng khiến cho việc đánh giá liệu ngân sách dành cho một dự án phát triển có đóng góp cho thích ứng hay không, và việc đánh giá các nguồn lực phi vật chất được huy động cho thích ứng, đặc biệt là ở cấp cộng đồng gặp nhiều khó khăn.
Thứ hai, khuyến khích tăng cường khả năng chống chịu ở các địa phương. Khả năng của các bên liên quan ở địa phương trong việc huy động các nguồn lực khác nhau để phục hồi và thực hiện các điều chỉnh hàng ngày, và phát triển nhiều giải pháp khác (ví dụ như nhiều nguồn thu nhập) để đối phó với các cú sốc cho thấy mức độ linh hoạt cao ở cấp địa phương có thể thúc đẩy năng lực thích ứng và củng cố khả năng chống chịu. Điều này có thể được tăng cường thông qua các chính sách cụ thể nhằm đảm bảo sự tham gia của các bên liên quan.
Thứ ba, lồng ghép thích ứng vào công tác quy hoạch phát triển. Tuy nhiên, trong khi các hành động này có hiệu quả trong ngắn hạn và cần được hỗ trợ, chúng không đủ để ứng phó với và giảm thiểu các tác động tiềm tàng của biến đổi khí hậu trong dài hạn. Những giải pháp này cần những hỗ trợ từ bên ngoài nhằm khuyến khích và tăng cường các chiến lược thích ứng được lên kế hoạch và cần được lồng ghép vào các quy hoạch tổng thể quy mô lớn (Quy hoạch tổng thể giai đoạn 2021–2030 và tầm nhìn đến 2050.
Chương trình GEMMES Việt Nam do Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) tài trợ và thực hiện, với sự phối hợp của Bộ Tài nguyên & Môi trường. Đây là chương trình nghiên cứu kinh tế về biến đổi khí hậu tại Việt Nam với sự tham gia của hơn 60 nhà nghiên cứu đến từ hai quốc gia. Dự án nhằm hỗ trợ Việt Nam thực hiện Thỏa thuận Paris và đóng vai trò như một công cụ để các nhà hoạch định chính sách xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn thích ứng với các tác động của biến đổi khí hậu.
Nguồn: Kinh tế Môi trường