Hiệp hội Năng lượng Việt Nam (VEA) vừa có kiến nghị lên Thủ tướng Chính phủ, Ban Chấp hành TW và các Bộ, ngành liên quan về việc đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm phát triển bền vững cho ngành điện Việt Nam.
So với mức công suất đưa ra tại dự thảo Quy hoạch điện VIII, thì dung lượng phát triển điện gió ngoài khơi tới năm 2030 khoảng 2.000-3.000 MW (tương đương 2-3 GW). Như vậy, VEA đưa ra đề nghị tăng mức công suất phát triển cho điện gió ngoài khơi lên khoảng 7 lần so với dự thảo Quy hoạch điện VIII.
Lý giải kiến nghị này, theo Chủ tịch VEA Trần Viết Ngãi, điện gió ngoài khơi có nhiều ưu việt, chẳng hạn tốc độ gió lớn trên 10 m trên giây, lượng gió quanh năm từ 5.000 giờ trở lên. Các dự án điện gió ngoài khơi có thể lắp được turbin lớn, công suất trên 10 MW và tạo ra lượng điện lên tới hàng tỉ kWh mỗi năm. Hiện thế giới cũng đang tập trung phát triển loại hình năng lượng này là chính.
Ngoài lợi thế về sản lượng, theo VEA, cùng với công nghệ thì giá các dự án điện gió ngoài khơi sẽ giảm dần, từ 7,69 cent một kWh năm 2020 xuống còn 6,94 cent vào 2030 và giảm về 5,82 cent mỗi kWh vào năm 2050.
"Nếu Việt Nam đầu tư thành công một dự án điện gió ngoài khơi, sẽ rút ra được nhiều bài học quý giá", ông Ngãi nêu.
Trước đó, Hiệp hội điện gió toàn cầu (GWEC) cũng đã kiến nghị Chính phủ, Bộ Công thương xem xét tăng tỉ trọng điện gió tại Quy hoạch điện VIII lên 10.000 MW, thay vì đang dự tính 3.000 MW cho giai đoạn đến năm 2030 như trong bản dự thảo cuối cùng đang lấy ý kiến các bộ, ngành trước khi trình Thủ tướng Chính phủ thông qua.
Cùng với đó, GWEC cho rằng, nếu không kéo dài chính sách giá cố định (FIT) trong vòng 2 năm như kiến nghị của các nhà đầu tư và một số hiệp hội năng lượng thì Chính phủ có thể nghiên cứu thí điểm chính sách giá cố định cho 4.000 - 5.000 MW điện gió ngoài khơi, trước khi chuyển sang thực hiện cơ chế đấu thầu để đánh giá, rút kinh nghiệm vì hiện chưa có dự án ngoài khơi nào được thực hiện ở Việt Nam.
Theo bà Liming Quiao, Giám đốc khu vực của GWEC, điểm mạnh của điện gió ngoài khơi là hiệu suất cao, khoảng 29 - 52%, gấp đôi điện mặt trời, cao hơn điện gió trên bờ và tương đương điện khí. Cùng với công nghệ mới, hiệu suất của điện gió ngoài khơi tăng thêm 2,5% mỗi năm, nên loại năng lượng này có thể chạy phụ tải nền với nguồn khá ổn định.
“Hiện suất đầu tư mỗi MWh điện gió ngoài khơi khoảng 83 USD, giảm hơn 4 lần trong vòng 10 năm (255 USD/1 MWh năm 2010). Dự kiến mức giá này giảm còn 58 USD vào 2025 nếu thị trường đạt tới công suất lắp đặt nhất định, ít nhất cỡ 5.000 MW”, bà Liming Quiao nói.
Giá cố định (FIT) ưu đãi cho điện gió trên biển hiện là 9,8 cent một kWh (tương đương 2.223 đồng) và trên bờ là 8,5 cent một kWh (khoảng 1.927 đồng). Giá này chưa gồm thuế VAT, được áp dụng cho một phần hoặc toàn bộ nhà máy có ngày vận hành thương mại trước 1/11/2021 và áp dụng trong 20 năm kể từ ngày vận hành thương mại. Tức là muốn được hưởng giá ưu đãi 9,8 cent một kWh, các dự án điện gió ngoài khơi phải vận hành trước ngày 1/11. Sau thời điểm này cơ chế giá sẽ thay đổi. Đại diện Cục Điện lực & Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) cho biết, cơ quan này đang xây dựng cơ chế đấu thầu (tức không có giá cố định nữa, các nhà đầu tư bỏ thầu, giá thấp nhất thì áp dụng) cho các dự án năng lượng tái tạo (điện gió, mặt trời) sau ngày 31/10, thay vì giá FIT ưu đãi như trước. |