Trần Bách ·
2 năm trước
 1793

Hành vi trục lợi bảo hiểm sẽ phải đối diện với những mức xử phạt như thế nào?

Hành vi trục lợi bảo hiểm là một trong những vấn nạn xã hội cần ngăn chặn. Vậy, khi bị phát hiện có hành vi trục lợi bảo hiểm, những đối tượng này bị xử lý như thế nào?

Trục lợi bảo hiểm ngày càng trở nên nghiêm trọng, tinh vi, không chỉ gây thiệt hại cho doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm chân chính mà còn tạo ra những vấn nạn xã hội.

Trục lợi bảo hiểm

Trục lợi bảo hiểm là hành vi cố tình gian dối, lừa đảo có thể có chủ ý ngay từ khi tham gia bảo hiểm hoặc phát sinh sau khi đã xảy ra rủi ro cho đối tượng bảo hiểm nhằm chiếm đoạt một số tiền từ doanh nghiệp bảo hiểm mà đáng lí họ không được hưởng

Hành vi này cần lên án và phải xử lý nghiêm không chỉ vi phạm ở việc gian dối trục lợi, ngoài việc có dấu hiệu chiếm đoạt tài sản mà nghiêm trọng hơn nó còn gây tâm lý lo lắng, bất an đối với xã hội trong quá trình bảo đảm hoạt động an sinh xã hội tại các địa phương.

Tại Điều 4, Mục V, Thông tư 31/2004/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định 118/2003/NĐ-CP cũng định nghĩa về trục lợi bảo hiểm như sau: “Hành vi trục lợi trong việc tham gia bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm và giải quyết khiếu nại bảo hiểm được hiểu là “hành vi cố ý lừa dối tổ chức, cá nhân nhằm thu lợi bất chính khi tham gia bảo hiểm, yêu cầu, giải quyết bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm, giải quyết khiếu nại bảo hiểm”.

Tuy nhiên, Thông tư 31/2004/TT-BTC đã hết hiệu lực do Nghị định 118/2003/NĐ-CP hết hiệu lực, và hiện nay pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể nào cho hành vi trục lợi bảo hiểm.

Nhưng về bản chất của trục lợi bảo hiểm vẫn được hiểu là hành vi cố tình gian dối, lừa đảo để được trả tiền bảo hiểm thì đối với hành vi này, theo quy định nhà nước ta vẫn sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính, hoặc nếu đủ cấu thành tội phạm sẽ truy cứu trách nhiệm hình sự, cụ thể tại các quy định sau:

Xử phạt hành chính:

Khoản 3 Điều 14 Nghị định 98/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 48/2018/NĐ-CP quy định như sau:

“Điều 14. Xử phạt đối với hành vi vi phạm các quy định về bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm

3. Phạt tiền từ 90.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm về gian lận trong kinh doanh bảo hiểm mà số tiền chiếm đoạt dưới 20.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại dưới 50.000.000 đồng hoặc chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, cụ thể như sau:

a) Thông đồng với người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để giải quyết bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm trái pháp luật;

b) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin để từ chối bồi thường, trả tiền bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm đã xảy ra;

c) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin trong hồ sơ yêu cầu bồi thường, trả tiền bảo hiểm;

d) Tự gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe của mình để hưởng quyền lợi bảo hiểm trừ trường hợp luật quy định khác.”

Như vậy, đối với hành vi trục lợi bảo hiểm hay còn được hiểu là hành vi vi phạm về gian lận trong kinh doanh bảo hiểm mà số tiền trục lợi dưới 20 triệu đồng sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tiền từ 90.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.

Truy cứu trách nhiệm hình sự:

Điều 213 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung bởi Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định về tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm như sau:

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tiền bảo hiểm từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 174, 353 và 355 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:

a) Thông đồng với người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để giải quyết bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm trái pháp luật;

b) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin để từ chối bồi thường, trả tiền bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm đã xảy ra;

c) Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin trong hồ sơ yêu cầu bồi thường, trả tiền bảo hiểm;

d) Tự gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe của mình để hưởng quyền lợi bảo hiểm, trừ trường hợp luật có quy định khác

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:

a) Có tổ chức;

b) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt;

c) Chiếm đoạt số tiền bảo hiểm từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

d) Gây thiệt hại từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;

đ) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) Chiếm đoạt số tiền bảo hiểm 500.000.000 đồng trở lên;

b) Gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Do vậy, khi số tiền trục lợi trên 20 triệu đồng, và đủ cấu thành tội phạm của tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm thì người phạm tội sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ cho đến mức phạt tối đa 07 năm tù.

Trước thực trạng này, cơ quan chức năng cần có những biện pháp khắc phục và chế tài xử lý hành chính trong trường hợp người mua bảo hiểm có hành vi gian dối, khai báo không đúng sự thật. Trường hợp đã bị xử phạt hành chính và yêu cầu khắc phục hậu quả nhưng vẫn tiếp tục tái phạm thì mới áp dụng các quy định của pháp luật luật hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự. Bên cạnh đó, các đơn vị kinh doanh bảo hiểm cần phải có kế hoạch cụ thể trong công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra, giám sát phát hiện, xử lý nghiêm các đơn vị, cá nhân, doanh nghiệp vi phạm.

Nguồn