Bộ phận Nghiên cứu Toàn cầu HSBC (HSBC Global Research) vừa công bố báo cáo về các tác động của biến đổi khí hậu đến ngành du lịch toàn cầu với nhan đề “Kỳ nghỉ nóng nực: Ngành du lịch trong bối cảnh khí hậu biến đổi”, chỉ ra ngành du lịch đang thay đổi khi phải đối mặt với tình hình nhiệt độ gia tăng và các hiện tượng thời tiết cực đoan, đặc biệt là du lịch ven biển.
Ảnh minh hoạ (Nguồn: Internet)
Tác động của các hiện tượng thời tiết cực đoan
Mặt trời thiêu đốt tiếp tục chiếu khắp miền nam châu Âu, bao gồm Hy Lạp, Tây Ban Nha và Sicily với những đợt nắng nóng khắc nghiệt và nhiệt độ lên đến hơn 45°C thời gian vừa qua. Điều này đang gây thiệt hại cho các điểm du lịch được ưa thích nhất trên thế giới, như đồi Acropolis đã phải đóng cửa và khách du lịch trên đảo Sardinia của Ý buộc phải ở trong nhà suốt đợt nắng nóng.
Bãi biển là các điểm du lịch nổi tiếng, chiếm gần 50% lượng khách du lịch toàn cầu. Tuy nhiên, du lịch ven biển đang phải đối mặt với một mối đe dọa tiềm tàng do biến đổi khí hậu. Ngành này vốn là xương sống đối với một số nền kinh tế kém phát triển nhất thế giới, bao gồm nhóm quốc đảo nhỏ đang phát triển (Small Island Developing States - SIDS), cũng là những nơi dễ bị ảnh hưởng nhất trước biến đổi khí hậu.
Trong khi các hiện tượng thời tiết cực đoan, chẳng hạn như lốc xoáy và lũ lụt, đã gây ra những rủi ro tức thì, thì mực nước biển dâng cao và quá trình axit hóa đại dương cũng đang gióng lên hồi chuông cảnh báo. Ngoài ra, các tác động thứ cấp, chẳng hạn như mức độ dồi dào của nước và sự lây lan của dịch bệnh, cũng ngày càng dấy lên quan ngại trong các cộng đồng ven biển cũng như khách du lịch.
Theo HSBC, từ những khu nghỉ mát ven biển đẹp hút hồn đến những thị trấn bên bờ biển long lanh như tranh vẽ, nhiều điểm thu hút khách du lịch nổi tiếng chẳng hạn như Maldives có nguy cơ bị nhấn chìm do mực nước biển dâng cao. Nguy cơ này đang ngày càng trở nên rõ ràng - năm 2019, Indonesia đã công bố kế hoạch di dời thủ đô khỏi Jakarta để đối phó với mối đe dọa do mực nước biển dâng cao.
Theo NASA, mực nước biển toàn cầu đã tăng 98,5mm kể từ năm 1993. Hơn nữa, tốc độ trung bình đang tăng nhanh, tăng gấp ba lần từ 1,3mm/năm trong giai đoạn 1901 đến 1971 lên 3,7mm/năm trong giai đoạn 2006 đến 2018. Trong khi mức độ dâng cao của mực nước biển phụ thuộc vào lượng khí thải và sự hấp thụ nhiệt của các đại dương, 1 tỷ người có thể bị ảnh hưởng vào năm 2050.
Báo cáo HSBC cho biết: “Đến năm 2100, các sự kiện cực đoan liên quan đến mực nước biển trước đây mỗi thế kỷ chỉ xảy ra một lần giờ đây có thể xuất hiện ít nhất mỗi năm một lần tại nhiều vùng biển. Ngay cả khi đi theo lộ trình phát thải CO2 thấp, trung bình thế giới vẫn có khả năng mất đi 53% bãi biển có cát. Điều này sẽ kéo theo sự sụt giảm 30% số phòng khách sạn và 38% doanh thu du lịch vào năm 2100”.
Đóng góp gần 6% cho GDP toàn cầu và tạo việc làm cho gần 290 triệu người trong năm 2021 (Hội đồng Du lịch và Lữ hành Thế giới), nhưng ngành du lịch và lữ hành đang phải đối mặt với vô số thách thức đến từ nhiệt độ cực đoan. Những đợt nắng nóng không ngừng gây ra những rủi ro nghiêm trọng về sức khỏe, bao gồm mất nước và say nắng, khiến khách du lịch không thể ra ngoài khám phá, cản trở các hoạt động sôi động thường thấy của ngành.
Một bài báo đăng trên tạp chí Khoa học về Môi trường Toàn diện vào năm 2022 nêu bằng chứng cho thấy, nhiệt độ tăng 1°C có thể làm tăng khả năng mắc bệnh do tiếp xúc trực tiếp với nắng nóng lên 18%. Hơn nữa, các nền kinh tế nhỏ và kém phồn vinh hơn có thể phải vật lộn để đối phó với nhu cầu làm mát ngày càng tăng khi khách du lịch tìm cách trốn khỏi mức nhiệt độ nóng như thiêu như đốt.
“Nhu cầu ngày càng cao đối với các khu vực gắn điều hòa cũng có khả năng khiến mức tiêu thụ năng lượng tăng mạnh, tạo áp lực cho lưới điện địa phương và tăng lượng phát thải”, Báo cáo của HSBC nhấn mạnh.
Nhu cầu du lịch thay đổi
Thời tiết oi ả đang ảnh hưởng đến kế hoạch du lịch của người dân. Tháng trước, Ủy ban Du lịch châu Âu (ETC) đã báo cáo về sự sụt giảm dự định đi du lịch ở châu Âu so với những năm trước. Ngoài ra, mức độ phổ biến của các điểm đến ở Địa Trung Hải đã giảm 10% so với năm ngoái. Mặt khác, các điểm đến như Bulgaria và Đan Mạch đang ngày càng trở nên phổ biến do nền nhiệt ôn hòa hơn.
“Mặc dù không có bằng chứng chắc chắn về các khách du lịch phản ứng với những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu nhưng nhiều điểm du lịch nổi tiếng có thể sẽ mất đi sức hấp dẫn, tạo cơ hội tỏa sáng cho một số điểm đến ít được biết đến hơn. Sự thay đổi trong tâm lý của khách du lịch có thể sẽ có tác động đáng kể đến các nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào thu nhập từ du lịch”, Báo cáo HSBC nhận định.
Một nghiên cứu dự báo sự đa dạng về chức năng của các loài chim trên cạn tăng lên ở các khu vực vĩ độ cao và giảm sự đa dạng ở các khu vực vĩ độ trung bình vào năm 2050, dựa trên kịch bản phát thải khí nhà kính ở mức vừa đến cao. Những thay đổi do khí hậu gây ra trong phân bổ loài có thể ảnh hưởng đến du lịch sinh thái, chẳng hạn như các đơn vị khai thác du lịch safarisafari, theo đó sự suy giảm quần thể động vật sẽ khiến việc con người tương tác với một số loài nhất định trở nên khó khăn.
“Tuy nhiên, những vùng trước đây ít phổ biến về du lịch sinh thái có thể trở nên hấp dẫn hơn. Ngành công nghiệp rượu vang cũng phải đối mặt với một số thách thức từ biến đổi khí hậu: mưa đá và sương giá mùa xuân làm hỏng mùa màng, trong khi nhiệt độ nóng lên khiến nho chín sớm. Do đó, một số vùng có thể dần trở nên không thích hợp để sản xuất rượu vang, điều này có thể kéo theo những ảnh hưởng ngầm đối với ngành du lịch rượu vang”, các chuyên gia của HSBC nhận định.
Đại dịch COVID-19 đã cho thấy ngành du lịch dễ bị ảnh hưởng đến nhường nào. Các quốc gia kém phát triển phụ thuộc nhiều vào du lịch đang phải đối mặt với những thách thức đáng kể, bao gồm cả tình trạng bất ổn xã hội khi lượng khách du lịch giảm đi do tác động của khí hậu nóng lên. Các biện pháp thích ứng, các công cụ dự báo và cảnh báo sớm được cải thiện cũng như quản lý rủi ro thiên tai sẽ đóng vai trò quan trọng trong cách ngành du lịch ứng phó với những rủi ro sắp đến.
HSBC nhấn mạnh: “Cơ sở hạ tầng, chẳng hạn như kè chắn sóng và kết cấu đê chắn sóng, và khu vực bảo tồn các hệ thống tự nhiên, chẳng hạn như rừng ngập mặn, là những biện pháp bảo vệ bờ biển quan trọng”.
Theo đó, HSBC gợi ý các chiến lược về nơi ở, chẳng hạn như nâng nền nhà ở và cơ sở hạ tầng chính yếu có thể giúp giảm tác động của lũ lụt. Ví dụ, những ngôi nhà được xây dựng cách mặt đất 1,5m được chính phủ trợ cấp ở Quần đảo Tuamotu, nơi đặc biệt dễ bị lũ lụt. Một số khu vực cũng đã và đang áp dụng các biện pháp dựa vào hệ sinh thái để ứng phó với biến đổi khí hậu.
Các rạn san hô nhân tạo ngày càng được sử dụng nhiều hơn để hỗ trợ phục hồi rạn san hô ở các quốc gia như Antigua và Grenada. Tại Vanuatu, các doanh nghiệp du lịch đã tham gia thành lập các khu bảo tồn biển để giải quyết các rủi ro liên quan đến khí hậu. Khi tác động của biến đổi khí hậu tiếp tục gia tăng, các biện pháp thích ứng sẽ ngày càng trở nên quan trọng trong việc bảo vệ các khu vực dễ bị ảnh hưởng.
“Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng cần phải thừa nhận sự bền vững lâu dài phụ thuộc vào cách tiếp cận trên diện rộng, kết hợp các chiến lược thích ứng với nỗ lực toàn cầu nhằm giảm đáng kể lượng khí thải nhà kính”, HSBC nhấn mạnh.