Thành Phong ·
1 năm trước
 7023

Phát triển hydro xanh trong quá trình chuyển đổi năng lượng sạch ở Việt Nam

Hydro xanh và những dẫn xuất của Hydro xanh đang được thế giới quan tâm và kỳ vọng là giải pháp có vị trí ngày càng quan trọng trong lộ trình chuyển dịch năng lượng.

Là lĩnh vực hạ tầng thiết yếu của nền kinh tế, ngành năng lượng được dự báo có mức phát thải CO2 là 101 triệu tấn vào năm 2050, chiếm trên 70% lượng phát thải quốc gia. Do đó, năng lượng có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình thực hiện những cam kết quốc tế của Việt Nam về biến đổi khí hậu.

Ngày 23/2, Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc tại Việt Nam phối hợp với Viện Năng lượng tổ chức Hội thảo tham vấn “Đánh giá tổng thể về sản xuất hydro xanh từ các nguồn năng lượng mặt trời và năng lượng gió và tiềm năng sử dụng ở Việt Nam”.

Theo đó, Hội thảo nhằm góp phần giảm phát thải khí nhà kính và thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng sạch ở Việt Nam.

Tại hội thảo, Phó Viện trưởng Viện Năng lượng Lê Việt Cường cho biết, cùng với những giải pháp về phát triển năng lượng tái tạo, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, phát triển nguồn điện có phát thải carbon thấp… Hydro xanh và những dẫn xuất của Hydro xanh đang được thế giới quan tâm và kỳ vọng là giải pháp có vị trí ngày càng quan trọng trong lộ trình chuyển dịch năng lượng. Bởi những đặc tính ưu việt về giảm phát thải các khí ô nhiễm và CO2 trong vòng đời sản phẩm, dù là nhiên liệu của quá trình chuyển hóa năng lượng hay là nguyên liệu đầu vào của những ngành sản xuất công nghiệp.

Năng lượng có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình thực hiện những cam kết quốc tế của Việt Nam về biến đổi khí hậu.

Ngoài ra, Việt Nam đã cam kết cùng cộng đồng quốc tế nỗ lực cho mục tiêu giảm phát thải ròng bằng “0” tại COP26, vì vậy năng lượng có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình thực hiện những cam kết quốc tế của Việt Nam về biến đổi khí hậu.

Do đó, việc thực hiện nghiên cứu “Đánh giá tổng thể việc sản xuất Hydro xanh từ các nguồn năng lượng mặt trời, năng lượng gió và các tiềm năng sử dụng Hydro xanh ở Việt Nam” sẽ hỗ trợ cho các bên liên quan của Việt Nam có thêm được góc nhìn tổng thể về vai trò của Hydro xanh, cùng các luận cứ cần thiết khi đưa ra quyết định. Để từ đó quá trình xây dựng và thực thi các cơ chế, chính sách phát huy hiệu quả trong hỗ trợ phát triển ứng dụng, sản xuất hydro xanh cho mục đích giảm phát thải khí nhà kính và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi năng lượng sạch ở Việt Nam. Kết quả của dự án sẽ là bước khởi đầu cho nhiều nghiên cứu, hợp tác tiếp theo giữa UNDP và các đối tác trong nước về vấn đề này, trong đó có Viện Năng lượng.

Chuyên gia đề xuất ý kiến 

Ông Patrick Haverman, Phó Đại diện thường trú UNDP cho biết, nhu cầu nền công nghiệp và nền kinh tế đang phát triển tại Việt Nam còn gặp nhiều thách thức về nhu cầu tiêu thụ năng lượng, với tốc độ khoảng 10 đến 12% hàng năm. Do đó, để tránh tình trạng thiếu điện cục bộ và tăng cường an ninh năng lượng, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra một loạt cam kết của JETP để giảm 30% lượng phát thải cao nhất hàng năm từ ngành năng lượng, và xây dựng kế hoạch đẩy lùi thời điểm đạt đỉnh phát thải 5 năm, gia tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo trong sản xuất điện từ 36% lên ít nhất 47% vào năm 2030, điều chỉnh giảm lượng than đá tối đa và đỉnh phát thải vào năm 2030 thay vì năm 2035.

Phó Đại diện thường trú UNDP cũng cho rằng, thực hiện thành công các mục tiêu này sẽ cần sự đóng góp vai trò tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa từ năng lượng Hydro (H2) xanh, với tiềm năng sẽ phát triển trong thời gian tới, hướng Việt Nam đến lợi ích lâu dài trong bối cảnh định giá giới hạn, đặt các mục tiêu, xây dựng chiến lược, quy định và cung cấp các ưu đãi dựa trên thị trường để giảm carbon.

Cũng tại Hội thảo, ông Nguyễn Xuân Trung, Viện Năng Lượng đã trình bày tham luận về Dự báo nhu cầu hydro và amoniac cho các ngành kinh tế Việt Nam đến 2050.

Trong đó, ông Nguyễn Xuân Trung nhấn mạnh, hiện nay H2 xanh được xem như một nguồn năng lượng thế hệ mới, một nguồn năng lượng thay thế tối ưu trong tương lai gần. Vì vậy, việc sản xuất H2 xanh và các chất mang năng lượng như amoniac cùng với các nhà máy năng lượng tái tạo có thể đáp ứng một phần nhu cầu của Việt Nam về lưu trữ và tiêu thụ năng lượng trong giao thông vận tải và các lĩnh vực công nghiệp, lọc hóa dầu, phát điện, tích trữ năng lượng qua pin tích năng, pin nhiên liệu, luyện kim, điện tử, y tế…

Đặc biệt, đối với ngành Giao thông Vận tải, H2 sử dụng năng lượng cho các phương tiện về Giao thông đường bộ, đô thị, đường thuỷ và hàng không.

Tương tự với ngành sản xuất điện, nhu cầu nhiên liệu thay thế cho các loại nhiên liệu than và khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) của các nhà máy nhiệt điện theo định hướng đến năm 2030 sẽ không phát triển thêm nhà máy điện than mới; đến năm 2050, các nhà máy điện khí LNG sẽ chuyển đổi 100% sang sử dụng nhiên liệu H2 và dẫn xuất của H2, 50% các nhà máy nhiệt điện than sẽ chuyển đổi sang sử dụng nhiên liệu H2,… Qua kết quả tính toán nhu cầu H2 có thể thấy mức độ sử dụng H2 cho phát triển các ngành kinh tế là rất lớn.

Theo kết quả nghiên cứu từ Viện Năng lượng (từ tính toán nhu cầu Hydro xanh) cho thấy nhu cầu sử dụng Hydro xanh cho phát triển các ngành kinh tế là rất lớn. Tuy nhiên hiện Công nghệ sản xuất và ứng dụng của Hydro xanh chưa hoàn thiện và còn nhiều không gian để phát triển do đó nhu cầu Hydro xanh sẽ thay đổi tùy theo sự phát triển của công nghệ sản xuất, lưu trữ, sử dụng và phân phối…

Hiện nay, hydrogen chủ yếu được sản xuất từ khí thiên nhiên bằng công nghệ chuyển hóa hydrocarbon bằng nhiệt. Công nghệ này gây ra phát thải khí nhà kính CO2.

Việt Nam có nguồn hydrogen xám và lam, được sản xuất ngay tại các nhà máy bằng công nghệ nhiệt hóa nguồn khí tự nhiên từ các mỏ PM3-CAA, bể Cửu Long, bể Nam Côn Sơn, mỏ Bạch Hổ, Tê Giác Trắng, Sư Tử Đen, Sư Tử Vàng, Rạng Đông, Đàn Đáy, Báo Vàng...

Hiện nay, hydrogen đang được sử dụng trong vai trò nhiên liệu đầu vào sản xuất ở các ngành công nghiệp trong nước, trong đó được sử dụng nhiều nhất trong lọc dầu, hóa chất, sản xuất phân đạm và gang thép.

Năm 2020, theo đánh giá của Viện Nghiên cứu Dầu khí, các nhà máy sản xuất phân đạm sử dụng khoảng 316.000 tấn hydrogen, các nhà máy lọc dầu Dung Quất và Nghi Sơn tiêu thụ lần lượt là 39.000 tấn và 139.000 tấn/năm.