Huyền My ·
1 năm trước
 3563

Hiệu quả phát triển năng lượng xanh trên con đường hướng đến Net Zero

Tại COP26, Việt Nam đã cam kết mạnh mẽ giảm phát thải ròng về 0 vào năm 2050. Trong những năm qua, Việt Nam đã có nhiều hành động tích cực, hướng đến phát triển xanh, bảo vệ môi trường.

Giá năng lượng cao vào năm 2022 đã làm tăng đáng kể ​​hiệu quả năng lượng và giảm thiểu việc sử dụng năng lượng. Loại bỏ các hoạt động sử dụng năng lượng không hiệu quả, tốn kém là một quá trình chuyển đổi năng lượng trong ba thập kỷ tới và sẽ là ưu tiên hàng đầu để các cá nhân, công ty, cũng như chính phủ tập trung vào chuyển đổi nhanh hơn.

Quá trình hiện thực hóa cam kết Net Zero tại Việt Nam

Theo báo cáo mang tên PwC Net Zero Economy Index (Chỉ số kinh tế Net Zero năm 2022) của PwC (PricewaterhouseCoopers) - công ty kiểm toán hàng đầu thế giới của Anh: Châu Á - Thái Bình Dương vượt trội hơn so với các khu vực khác trên toàn cầu trong năm 2021 với tỷ lệ giảm phát thải carbon là 1,2% so với 0,5%, trong nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính từ tăng trưởng kinh tế, mặc dù đang đối mặt với nhiều trở ngại. Việt Nam và New Zealand là 2 nền kinh tế duy nhất vượt qua mục tiêu giảm phát thải khí carbon dựa trên mục tiêu Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC).

Quá trình thực hiện cam kết Net Zero tại Việt Nam. Ảnh minh họa. 

Theo PwC: Tuy còn ở trong nhóm phụ thuộc vào than đá, nhưng Việt Nam và New Zealand là 2 nền kinh tế duy nhất vượt qua mục tiêu giảm phát thải khí carbon dựa trên mục tiêu NDC. Lượng khí thải CO2 liên quan đến năng lượng trên một đơn vị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) được tạo ra đang giảm. Trong khi đó, nỗ lực giảm phát thải carbon của thế giới là 0,5%, một khoảng cách lớn so với tỷ lệ giảm phát thải carbon 15,2% cần thiết để hạn chế sự nóng lên toàn cầu ở mức 1,5°C so với mức thời kỳ tiền công nghiệp.

Nghiên cứu đo lường mức độ tiêu thụ năng lượng so với GDP và hàm lượng carbon của năng lượng đó thì 9 trong số 13 nền kinh tế châu Á - Thái Bình Dương đã giảm phát thải carbon vào năm 2021, riêng New Zealand và Việt Nam vượt trội hơn cả. New Zealand giảm cường độ carbon nhiều nhất ở mức 6,7% vào năm 2021, tiếp theo là Malaysia (4,0%), Việt Nam (3,4%) và Australia (3,3%). PwC cho rằng châu Á - Thái Bình Dương vượt hơn phần còn lại của thế giới về tốc độ khử cacbon vào năm 2021, nhưng vẫn còn kém xa so với mức cần thiết để hạn chế sự nóng lên ở mức 1,5°C.

Thành công trong tương lai của các nền kinh tế châu Á - Thái Bình Dương phụ thuộc vào tốc độ tách phát thải khí nhà kính ra khỏi tăng trưởng kinh tế. Để đi đúng quỹ đạo, các nền kinh tế khu vực cần giải quyết cả cường độ năng lượng và yếu tố nhiên liệu. Mỗi giải pháp này phụ thuộc vào giai đoạn phát triển kinh tế và yêu cầu thay đổi hành vi ở cấp độ cộng đồng, doanh nghiệp và cá nhân. Châu Á - Thái Bình Dương phải bắt đầu quá trình chuyển đổi năng lượng ngay bây giờ để tránh tiến độ bị đình trệ vào cuối thập kỷ. Gần 50% nhu cầu năng lượng của châu Á - Thái Bình Dương được đáp ứng bằng than đá vào năm 2021, gấp đôi mức trung bình của thế giới. Vì vậy, kế hoạch cần phải thực thi ngay lập tức.

Ví dụ, việc dừng hoạt động của các nhà máy điện than là một nỗ lực kéo dài nhiều năm với sự tham gia của nhiều bên liên quan, từ chính phủ đến các nhà điều hành, các nhà tài chính và thông qua chuỗi cung ứng, lực lượng lao động, người tiêu dùng.

Theo PwC: Câu chuyện khử cacbon đang chuyển từ tham vọng sang hành động. Tuy nhiên, chỉ số năm nay cho thấy những khoảng cách đáng kể trong cả hai lĩnh vực cần được thừa nhận và giải quyết càng sớm càng tốt. Thu hẹp khoảng cách sẽ là một bước ngoặt để châu Á - Thái Bình Dương đạt được lợi thế cạnh tranh trên toàn cầu về mức phát thải ròng bằng 0 hay Net Zero trong tương lai.

Đóng góp của hoạt động phát triển năng lượng xanh trong việc thực hiện Net Zero

Theo tính toán của các chuyên gia, sau năm 2035, cường độ năng lượng giảm mạnh hơn so với tăng trưởng dân số và GDP bình quân đầu người. Do đó, tăng trưởng nguồn cung cấp năng lượng sơ cấp toàn cầu trở nên chững lại và cung cấp năng lượng sơ cấp đạt đỉnh vào giữa những năm 2030.

Sau 2035, cường độ năng lượng sẽ giảm mạnh hơn tăng trưởng GDP và dân số trên đầu người. Đến năm 2042, GDP toàn cầu tăng gấp đôi (107%) và tiêu thụ năng lượng sơ cấp tăng 8%, còn cường độ năng lượng sẽ giảm một nửa từ 4,3 MJ (Megajoule)/USD xuống 2,1 MJ/USD.

Phát triển năng lượng xanh có đóng góp lớn trong hoạt động thực hiện cam kết Net Zero. 

Vào những năm 2040, các cải thiện cường độ năng lượng sẽ giảm dần phần nào bởi vì có ít cơ hội hơn để đạt hiệu quả cao hơn trong sản xuất điện và sử dụng năng lượng cuối cùng. Điện khí hóa nhanh chóng được cung cấp bởi năng lượng tái tạo, là động lực cốt lõi tăng tốc hiệu quả năng lượng trong ba thập kỷ tới. Hiệu suất của các nhà máy nhiệt điện chạy than và dầu điển hình là khoảng 30 đến 40% và lên đến 60% đối với các nhà máy chu trình hỗn hợp sử dụng khí.

Đối với điện mặt trời và gió, nếu coi hiệu quả là 100% và tổn thất chuyển đổi như một tỷ lệ phần trăm của năng lượng đầu vào trong sản xuất điện thì tổn thất này sẽ giảm từ 51% vào năm 2019 xuống còn 19% vào năm 2050.

Hầu hết hiệu quả sử dụng cuối cùng cũng được liên kết với điện khí hóa, ví dụ như xe điện (EVs) sẽ hiệu quả gấp ba đến bốn lần phương tiện vận chuyển với động cơ đốt trong (ICEVs). Ở đây cũng tính đến các công nghệ cải tiến như thủy động lực học, hoặc cách nhiệt thân tàu dẫn đến hiệu suất động cơ tốt hơn. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, sẽ không đạt được hiệu quả như dự kiến và nhu cầu năng lượng ​​trong giao thông vận tải, trong các tòa nhà, cũng như trong sản xuất sẽ là 65%, cao hơn dự báo cho năm 2050. Có tiềm năng để tăng tốc hiệu quả vượt ra ngoài dự báo, nhưng điều đó đòi hỏi chính phủ các nước hành phải động theo yêu cầu linh hoạt hơn và có sự hợp tác liên ngành.