Thanh Tâm ·
1 năm trước
 5820

Quy hoạch lưu vực sông Cửu Long: Khai thác hiệu quả gắn với phát triển nguồn nước

Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long nhằm bảo đảm an ninh nguồn nước trên lưu vực sông, tích trữ, điều hòa, phân bổ tài nguyên nước một cách hợp lý, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn nước ngọt, lợ, mặn gắn với bảo vệ, phát triển bền vững.

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà vừa ký ban hành Quyết định 174/QĐ-TTg ngày 6/3/2023 phê duyệt Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch).

Theo đó, Quy hoạch nhằm bảo đảm an ninh nguồn nước trên lưu vực sông, tích trữ, điều hòa, phân bổ tài nguyên nước một cách công bằng, hợp lý, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn nước ngọt, lợ, mặn gắn với bảo vệ, phát triển bền vững tài nguyên nước nhằm đáp ứng nhu cầu nước cho dân sinh, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường.

Đồng thời, Quy hoạch góp phần bảo vệ tài nguyên nước, phòng chống suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước và các tác hại do nước gây ra, có lộ trình phục hồi nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm, đáp ứng yêu cầu quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực sông và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Đến năm 2030, phấn đấu đạt được một số chỉ tiêu cơ bản của Quy hoạch, gồm: 100% các vị trí giám sát dòng chảy xuyên biên giới được giám sát tự động, trực tuyến; 100% các nguồn nước liên tỉnh được công bố khả năng tiếp nhận nước thải, sức chịu tải; 100% công trình khai thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước được giám sát vận hành và kết nối hệ thống theo quy định; 100% hồ, ao, đầm, kênh, rạch không được san lấp theo quy định phải được công bố và quản lý chặt chẽ; 50% nguồn nước thuộc đối tượng lập hành lang bảo vệ nguồn nước được cắm mốc theo quy định; 100% nước thải đô thị được xử lý đạt quy chuẩn quốc gia trước khi xả vào nguồn nước, hệ thống thoát nước chung.

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà vừa phê duyệt Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Một trong những nội dung đáng chú ý của Quy hoạch là quản lý, điều hòa, phân bổ nguồn nước góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước cho các mục đích khai thác, sử dụng và các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trên lưu vực sông.

Trong đó, quản lý điều hòa lượng nước có thể khai thác, sử dụng trên toàn lưu vực ứng với tần suất 50% khoảng 128.241 triệu m3, ứng với tần suất 85% khoảng 118.091 triệu m3, trong đó lượng nước có thể khai thác, sử dụng từ ngoài biên giới chảy vào (tại các trạm thủy văn Tân Châu, Châu Đốc) ứng với tần suất 50% khoảng 111.200 triệu m3, ứng với tần suất 85% khoảng 102.200 triệu m3 đáp ứng nhu cầu khai thác, sử dụng nước đến năm 2030.

Quy hoạch cũng đưa ra một trong những giải pháp là điều hòa, phân bổ, phát triển, bảo vệ tài nguyên nước, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, tái sử dụng nước góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước.

Cụ thể, kiểm soát các hoạt động khai thác, sử dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước trên lưu vực sông Cửu Long thông qua việc kết nối, truyền thông tin, dữ liệu về hệ thống giám sát khai thác, sử dụng nước, xả nước thải theo quy định.

Bên cạnh đó, bổ sung, xây dựng mới công trình tích, trữ nước, công trình bổ cập nhân tạo nước dưới đất, điều tiết, khai thác, sử dụng, phát triển tài nguyên nước bảo đảm đa mục tiêu, phù hợp với Quy hoạch này và các quy hoạch chuyên ngành khác có liên quan, ưu tiên thực hiện tại 28 tiểu vùng bị thiếu nước ngọt thuộc 120 tiểu vùng quản lý tổng hợp tài nguyên nước.

Ngoài ra, rà soát, điều chỉnh quy trình vận hành hệ thống thủy lợi bảo đảm lưu thông dòng chảy, cải tạo môi trường nước phù hợp tình hình thực tế; xây dựng kế hoạch, lộ trình đầu tư xây dựng công trình cấp nước dự phòng trong trường hợp xảy ra sự cố ô nhiễm nguồn nước, hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn...

Cấp thiết ban hành Quy hoạch 

Hiện nay, lưu vực sông Cửu Long đã và đang đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng, nhất là các tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, hạn hán, gia tăng xâm nhập mặn, xói lở bờ sông, bờ biển, sụt lún đất...

Trong đó, những vấn đề lớn mà tài nguyên nước lưu vực sông Cửu Long đang phải đối mặt bao gồm: Phát triển và biến đổi khí hậu ở thượng lưu Mê Kông; cạn kiệt và ô nhiễm nguồn nước; tác động của khai thác cát trên sông; giảm đất ngập nước và đa dạng  sinh học; giảm lượng phù sa. Bên cạnh đó, lưu vực sông Cửu Long cũng chịu những tác động từ nuôi trồng thủy sản; xâm nhập mặn và sử dụng nước mặn; các vấn đề biến đổi khí hậu và nước biển dâng; nhu cầu nước ngày càng tăng; cói lở bờ sông và vùng cửa sông; tác động từ hạ lưu lưu vực sông Đồng Nai...

Do đó, Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Cửu Long sẽ góp phần cân bằng giữa lượng nước có thể khai thác và nhu cầu sử dụng nước trước tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng và do khai thác, sử dụng nước ở thượng lưu. Mặt khác, bảo vệ được các hệ sinh thái phụ thuộc vào nước, kiểm soát được tình trạng gia tăng ô nhiễm nguồn nước ở các khu dân cư, khu đô thị lớn, khu công nghiệp tập trung; hạn chế tình trạng xâm nhập mặn vùng cửa sông và các tầng chứa nước… Đặc biệt bảo đảm sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và bền vững nguồn nước.

Trước đó, ông Châu Trần Vĩnh – Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước từng cho rằng, việc lập quy hoạch lưu vực sông Cửu Long là hết sức cần thiết. Theo Phó Cục trưởng Châu Trần Vĩnh, báo cáo lập quy hoạch cần phải có sự thống nhất đánh giá để thấy được sự cấp bách trong việc lập quy hoạch này. Bên cạnh đó, cần thuyết minh rõ hơn chuỗi số liệu để có thể phân tích tổng quát về dòng chảy năm, dòng chảy lũ, dòng chảy kiệt. Đối với nguồn nước dưới đất, báo cáo thuyết minh cũng mới chỉ đề cập đến trữ lượng khai thác tiềm năng, tầng chứa nước, chưa đánh giá được tình hình xâm nhập mặn, suy giảm mực nước dưới đất…