Như Loan ·
3 năm trước
 3307

Trách nhiệm của cả cộng đồng: Đảm bảo an ninh tài nguyên nước

Tình trạng sử dụng nước kém hiệu quả; việc khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, phát triển kinh tế chưa bền vững… đang đặt Việt Nam đứng trước nhiều thách thức không nhỏ liên quan đến an ninh nguồn nước.

Việt Nam trước thách thức an ninh nguồn nước

Việt Nam được đánh giá là quốc gia có nguồn tài nguyên nước khá phong phú cả về lượng mưa, nguồn nước mặt trong các hệ thống sông, hồ và nguồn nước dưới đất. Hiện nay, Việt Nam có 3.450 sông, suối có chiều dài từ 10 km trở lên. Tổng tài nguyên dự báo nước dưới đất của cả nước khoảng 91 tỉ m3, trong đó nước nhạt khoảng 69 tỉ m3/năm (189,3 triệu m3/ngày).

Mặc dù có hệ thống sông ngòi dày đặc nhưng tổng lượng nước từ nước ngoài chảy vào Việt Nam chiếm tới khoảng 63%, còn lượng nước sinh ra ở phần lãnh thổ chỉ khoảng 37%, tương đương từ 310 - 315 tỉ m3/năm.

Bên cạnh đó, tình trạng sử dụng nước kém hiệu quả; việc khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, phát triển kinh tế chưa bền vững… đang đặt Việt Nam đứng trước nhiều thách thức không nhỏ liên quan đến an ninh nguồn nước.

Hiện Việt Nam chịu rủi ro về lượng nước, chất lượng nước rất lớn do các quốc gia thượng nguồn gia tăng các hoạt động thủy điện trên dòng chính sông Hồng, sông Mê Kông, trong khi đó các hồ chứa thủy điện và hồ chứa thượng nguồn chỉ có thể kiểm soát được 20% tổng lượng nước chảy vào Việt Nam.

Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tài nguyên nước mặt, nước ngầm khá phong phú.

Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tài nguyên nước mặt, nước ngầm khá phong phú. (Ảnh: Báo Quảng Ninh)

Cùng với đó là biến đổi khí hậu và nước biển dâng đe dọa nguồn nước ngọt của các sông, nước dưới đất. Biến đổi khí hậu kéo theo hiện tượng thời tiết cực đoan làm gia tăng các loại hình thiên tai như: bão, lũ, mưa lớn, hạn hán, xâm mặn, lượng mưa phân bố không đều trong năm, mùa khô kéo dài và mùa mưa lượng mưa tăng đột ngột; xâm nhập mặn, lũ ống, lũ quét, thay đổi lưu lượng dòng chảy... gây áp lực lên hệ thống thủy lợi, mực nước biển dâng cao, hạn chế diện tích canh tác.

Ngoài ra, hạ tầng kỹ thuật chưa đảm bảo để tích nước, hiệu quả sử dụng nước thấp, thất thoát nước lớn, sử dụng nước chưa tiết kiệm; nguồn nước phân bố không cân đối giữa các vùng, các lưu vực sông và không đều theo thời gian trong năm; nhu cầu nước gia tăng nhưng nguồn nước đang tiếp tục bị suy giảm đặc biệt là trong mùa khô; tình trạng ô nhiễm nguồn nước ngày càng tăng cả về mức độ, quy mô, nhiều nơi có nước nhưng không thể sử dụng do bị ô nhiễm; rừng đầu nguồn suy giảm, biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn tác động ngày càng mạnh mẽ tới tài nguyên nước...

Nỗ lực đảm bảo an ninh tài nguyên nước quốc gia

Nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết trong việc bảo đảm an ninh nguồn nước, Việt Nam luôn khẳng định “nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu của sự sống và môi trường, quyết định sự tồn tại, phát triển bền vững của đất nước”.

Những năm qua, Chính phủ Việt Nam luôn nỗ lực tăng cường và kiện toàn, thể chế, chính sách trong lĩnh vực tài nguyên nước, đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia cũng như hợp tác và tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, các quốc gia trên thế giới và khu vực để quản lý, bảo vệ hiệu quả tài nguyên nước.

Trong đó, xây dựng được hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật từ Luật Tài nguyên nước, Luật Thủy lợi, Luật Điện lực, Luật Đê điều, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đất đai, Luật Lâm nghiệp... Các nghị định, thông tư liên quan đến công tác an ninh nguồn nước phục vụ sản xuất, đời sống và an toàn hồ đập cũng đã được xây dựng khá đầy đủ, cùng với các điều ước quốc tế tạo ra cơ sở pháp lý cho công tác quản lý bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập. 

Mới đây, tại cuộc họp trực tuyến về tình hình xây dựng “Đề án bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia”, đại diện Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ TN&MT) cho biết, đến nay Cục đã xây dựng nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đảm bảo an ninh tài nguyên nước quốc gia. Theo đó, đến năm 2030 cần tập trung nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp để hoàn thành tối đa và sớm nhất các mục tiêu đặt ra, bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia gắn với phát triển bền vững kinh tế - xã hội, môi trường, tránh đầu tư dàn trải, không hiệu quả và rà soát, kế thừa, phát huy các nhiệm vụ, giải pháp hiệu quả đã thực hiện.

Đối với nhiệm vụ, giải pháp đến năm 2045 và những năm tiếp theo, cần tiếp tục hoàn thiện, nâng cao năng lực thể chế, tổ chức quản lý để đáp ứng yêu cầu quản lý nguồn nước trong thời kỳ mới.

Mục tiêu cụ thể của Đề án đến năm 2030 là giảm thiểu tối đa sự phụ thuộc, tối ưu hóa lợi ích do nguồn nước mang lại từ các nguồn nước liên quốc gia; chủ động điều tiết nước, phòng ngừa, ứng phó sự cố ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt, hạn hán, xâm nhập mặn; khắc phục có hiệu quả, bền vững tình trạng hạn hán, thiếu nước vào mùa khô các vùng Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, ĐBSCL, vùng sâu, vùng xa và hải đảo...

Bên cạnh đó, nâng cao khả năng tiếp cận nguồn nước sạch, an toàn cho người dân; kiểm soát cơ bản 90% hoạt động khai thác, sử dụng nước, bảo đảm sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, bền vững, an toàn, công bằng, hợp lý; kiểm soát trên 90% nguồn thải vào nguồn nước có vai trò quan trọng trong cấp nước được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường... Đồng thời, cải thiện việc cung cấp dịch vụ cấp nước đô thị, nông thôn, nâng tỉ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của người dân; đảm bảo an ninh lương thực thông qua việc vận hành hiệu quả các công trình thuỷ lợi trong điều kiện biến đổi khí hậu…

“Xây dựng Đề án đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia là một nhiệm vụ hết sức quan trọng nhằm mô tả bức tranh tổng thể về tài nguyên nước Việt Nam. Theo đó, việc xây dựng Đề án cần chỉ ra được những nguyên nhân khách quan, chủ quan; đồng thời, đánh giá được các tồn tại, thách thức và dự báo được những vấn đề về tài nguyên nước trong tương lai; từ đó, đặt ra các quan điểm, mục tiêu, chủ trương, chính sách lớn, các giải pháp để giải quyết các vấn đề về tài nguyên nước”, Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà nhấn mạnh.

Cũng theo nhiều chuyên gia, việc bảo đảm an ninh tài nguyên nước quốc gia phải dựa trên cơ sở quản lý tổng hợp tài nguyên nước, thống nhất quản lý về tài nguyên nước, do cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên nước chịu trách nhiệm điều phối chung. Việc quản lý phải thống nhất về số lượng, chất lượng nước; giữa nước mặt và nước dưới đất; nước trên đất liền và nước vùng cửa sông, nội thủy, lãnh hải; giữa thượng lưu và hạ lưu, kết hợp với quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác.

Kiến nghị các biện pháp tăng cường an ninh nguồn nước trong điều kiện biến đổi khí hậu, TS Đào Trọng Tứ - Trưởng ban Ban điều hành Mạng lưới sông ngòi Việt Nam cho rằng, trước hết, Việt Nam cần tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước qua phương thức quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực sông. Cùng với đó, tăng cường đầu tư khoa học - công nghệ trong quy hoạch, thiết kế, xây dựng, hiện đại hóa tạo ra các hạ tầng nước thông minh ứng phó với biến đổi khí hậu để nâng mức đảm bảo và hiệu quả sử dụng nước của các hệ thống công trình tưới tiêu, cấp thoát nước, công trình phòng chống thiên tai.

Đồng thời, cần nâng cao nhận thức và sự tham gia của các bên liên quan, cộng đồng trong quản trị tài nguyên nước quốc gia; phát huy, tăng cường vai trò, quyền hạn của các tổ chức xã hội trong quá trình xây dựng, thực hiện pháp luật, chính sách, chiến lược, kế hoạch liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội nói chung và nước nói riêng.

Nguồn