Minh Anh ·
1 năm trước
 8157

Vì sao nhiều dự án điện khí LNG chậm tiến độ?

Trong Quy hoạch điện VIII, sẽ có 15 dự án nhà máy nhiệt điện khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) phân bố trên cả nước. Tuy nhiên với tiến độ hơn 8 năm mới xây dựng được 1 nhà máy thì khó có thể hoàn thành tiến độ như kế hoạch.

Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) cho biết Quy hoạch Điện VIII quy định đến năm 2030, Việt Nam sẽ phát triển 23.900 MW điện khí, chiếm khoảng 16% cơ cấu nguồn điện, tập trung ở miền Bắc để đảm bảo nguồn điện chạy nền cho khu vực này.

Theo đó, đến năm 2030 Việt Nam sẽ xây mới 13 nhà máy điện khí LNG (khí tự nhiên hóa lỏng) với tổng công suất 22.400 MW. Trong đó, 5 dự án đang triển khai, 4 dự án đã tìm được nhà đầu tư, còn lại 4 dự án đang được các địa phương lựa chọn nhà đầu tư.

Ảnh minh họa. (Ảnh: ITN)

Nhiều vướng mắc cần được tháo gỡ

Cơ cấu nguồn nhiệt điện khí trong nước và LNG đến năm 2030 sẽ đạt 37.330MW, tương ứng 24,8% tổng công suất nguồn điện, chiếm tỷ trọng lớn nhất về cơ cấu nguồn điện. Còn nhiệt điện than chiếm tỷ trọng 20%, thủy điện 19,5%, điện gió trên bờ và ngoài khơi 18,5%.

Với cơ cấu nguồn điện đó, cùng định hướng đến năm 2050 không còn sử dụng than cho phát điện, các chuyên gia cho rằng, vai trò chạy nền của các nhà máy điện khí trong hệ thống là tất yếu… Việc đưa LNG vào sử dụng còn để phù hợp với cam kết của Chính phủ tại COP26 về xu hướng sử dụng nhiên liệu giảm phát thải.

Theo PGS. TS Đinh Trọng Thịnh, chuyên gia tài chính cho biết dự án điện khí Nhơn Trạch 3 và 4 là dự án điện LNG đầu tiên ở Việt Nam, có công suất 1.500 MW, tổng vốn đầu tư 1,4 tỷ USD và dự kiến vận hành thương mại trong giai đoạn 2024-2025. Song hiện nay dự án này đang gặp một số khó khăn, vướng mắc chưa được tháo gỡ.

PGS. TS Đinh Trọng Thịnh cho rằng dựa trên tình hình thực tế, việc thực hiện một dự án điện khí LNG mất hơn 8 năm. Nếu duy trì tiến độ như vậy, khó có thể hoàn thành kế hoạch xây dựng 13 nhà máy điện khí LNG đến năm 2030.

Còn theo PGS. TS Ngô Trí Long, một số chuỗi dự án khí – điện LNG đã được quy hoạch, thậm chí cho phép chủ trương đầu tư vẫn chưa được triển khai hoặc kéo dài tiến độ chuẩn bị đầu tư.

Nếu việc chậm tiến độ các nguồn điện, đặc biệt chậm phát triển nguồn điện nền như LNG có thể làm ảnh hưởng đến an ninh năng lượng.

Theo ông Nguyễn Duy Giang, Phó Tổng Giám đốc PV Power, hiện khó khăn lớn nhất trong triển khai dự án LNG Nhơn Trạch 3 và 4 đó là đàm phán hợp đồng mua bán điện (PPA), giữa PV Power và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) kéo dài và vướng mắc đến thời điểm hiện nay. Dù đã đàm phán PPA hơn 2 năm nhưng vẫn chưa hoàn thiện để ký kết. Vướng mắc chính có thể kể tới là việc cam kết tổng sản lượng điện mua hàng năm (Qc) từ phía EVN.

Theo ông Nguyễn Đức Kiên, nguyên Tổ trưởng Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng: Nhiều địa phương như Bạc Liêu, Long An từ chối sản xuất điện than và xin chuyển sang làm điện khí. Song dự án chưa được triển khai hoặc chậm tiến độ nhiều năm vẫn chưa thấy đường ra.

Ngoài ra, ông Nguyễn Đức Kiên cho rằng Việt Nam cũng chưa giải quyết được bài toán phát điện tập trung hay phát điện phân tán. Nhìn vào nguồn cung trước mắt, mùa hè năm 2024 có thể thiếu điện.

Cần có cơ chế riêng cho điện khí LNG

Phát triển điện khí là phù hợp với chủ trương của Việt Nam trong Quy hoạch điện VIII để đảm bảo cung cấp điện cho hệ thống, giảm phát thải khí nhà kính ra môi trường, bù đắp thiếu hụt năng lượng cho hệ thống và đảm bảo đa dạng nguồn cung cấp nhiên liệu. Đây là nguồn dự phòng khi tỷ trọng của các nguồn điện năng lượng tái tạo tăng cao trong cơ cấu nguồn, đảm bảo ổn định cung cấp điện cho hệ thống.

Tuy vậy, trong phát triển điện khí, thách thức lớn là nguồn cung và giá do hoàn toàn phụ thuộc nhập khẩu. Việt Nam chưa chủ động được nguồn cấp LNG. Do vậy, giá nhiên liệu khí hóa lỏng biến động thất thường và chiếm tỷ lệ từ 70 - 80% giá thành điện năng sản xuất, nên việc xây dựng cơ chế giá phù hợp để thích nghi với những thay đổi giá nhiên liệu, nhưng không tác động quá lớn tới giá bán lẻ điện là thách thức rất lớn với Việt Nam.

Chia sẻ về vấn đề này, ông Bùi Quốc Hùng, Phó Cục trưởng, Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo cho biết điện khí đóng vai trò là nguồn chạy nền trong Quy hoạch Điện VIII, tuy nhiên việc triển khai các dự án gặp nhiều khó khăn do nhiều yếu tố.

Theo đó, Việt Nam không chủ động được nguồn cấp khí hóa lỏng, phải nhập khẩu  phần lớn nhiên liệu này. Trong khi giá LNG đã có nhiều biến động lớn sau đại dịch Covid -19 và xung đột giữa Nga – Ukraine.

Điều này ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ của các thị trường nhạy cảm về giá như Việt Nam, nếu Chính phủ không có các hỗ trợ hợp lý trong các điều kiện đặc thù.

Giá nhập khẩu LNG cao là trở ngại trong tương lai khi ký các hợp đồng PPA giữa chủ đầu tư và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN). EVN phải mua điện giá cao và bán điện giá rẻ.

Mặt khác, giá phát điện LNG cao hơn so với các nguồn điện khác nên gặp khó khăn trong tham gia thị trường điện và đảm bảo hiệu quả đầu tư, ông Hùng cho biết.

Những yếu tố khác ảnh hưởng đến phát triển điện khí LNG được ông Bùi Quốc Hùng đưa ra là Việt Nam cũng chưa có bộ tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan đến thiết kế, xây dựng và vận hành các cơ sở hạ tầng phục vụ nhập khẩu LNG; khuôn khổ pháp lý cho các dự án LNG vẫn chưa được xây dựng hoàn chỉnh.

Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo cho rằng cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có các cơ chế đặc thù riêng cho phát triển điện khí LNG tại Việt Nam nhằm khắc phục những hạn chế khó khăn để đáp ứng tiến độ đặt ra cho các dự án.

Về phía doanh nghiệp, ông Huỳnh Quang Hải, Phó Tổng giám đốc Tổng công ty Khí Việt Nam (PV Gas), đơn vị vận hành kho cảng LNG Thị Vải đề xuất Chính phủ xây dựng các cơ chế chính sách liên quan đến cấp khí LNG tái hóa cho các nhà máy điện.

Ví dụ như cơ chế chuyển ngang giá khí LNG tái hóa và bao tiêu khối lượng khí từ hợp đồng mua bán khí sang hợp đồng mua bán điện; phê duyệt cước phí qua kho, cước phí đường ống..

Để tối ưu đầu tư hạ tầng kho chứa và giảm giá thành phát điện khí LNG, ông Huỳnh Quang Hải đề xuất các cơ quan quản lý cần xem xét xây dựng các kho LNG theo mô hình kho cảng LNG trung tâm cung cấp cho các trung tâm nhiệt điện vệ tinh.

Bên cạnh đó, các chuyên gia chỉ ra, những vướng mắc trong việc triển khai các dự án điện khí hiện vẫn là đàm phán giá điện. Nguyên nhân do bên mua là Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tính toán giá đang cao hơn giá bán lẻ điện bình quân  bán ra; chưa ban hành khung giá phát điện cho các nhà máy điện khí hóa lỏng; khung pháp lý chưa hoàn thiện; việc thu xếp vốn gặp nhiều khó khăn do cần đáp ứng yêu cầu của các tổ chức tài chính về các điều kiện bảo lãnh, cam kết để đầu tư có hiệu quả…

Trong khi đó, đến năm 2030 chỉ còn 7 năm để các dự án khí hóa lỏng triển khai và đi vào vận hành. Nếu không nhanh chóng tháo gỡ những vướng mắc, việc triển khai các dự án khí hóa lỏng sẽ gặp trở ngại lớn, đồng thời sẽ ảnh hưởng đến bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.

Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Dầu khí Việt Nam Nguyễn Hùng Dũng cho rằng, cơ chế thị trường phải hoàn toàn theo thị trường của dầu khí. Việt Nam có duy nhất tổng kho 1 triệu tấn, trong Quy hoạch điện VIII, nhiều tỉnh có quy hoạch điện khí, mong chuyển đổi từ than thành điện khí. Các doanh nghiệp bao giờ cũng hướng tới lợi ích và mong muốn thị trường phải được phát triển lành mạnh, đảm bảo tính công bằng.

Theo Tạ Nhị/Diễn Đàn Sự Thật

https://www.facebook.com/groups/4054824701243922/posts/7102917729767922/