Bích Ngọc ·
1 năm trước
 7729

Khối lượng trái phiếu chậm thanh toán vào cuối năm nay là bao nhiêu?

Theo ước tính, giá trị trái phiếu doanh nghiệp đến hạn sẽ bị chậm thanh toán vào cuối năm nay là khoảng 77,4 nghìn tỷ đồng, nhiều hệ lụy đáng ngại từ điều này sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế. Chính vì thế, đề xuất được coi là giải pháp có thể xem xét với những quy định thật chặt chẽ đó là cho phép các ngân hàng thương mại mua lại “có chọn lọc” trái phiếu doanh nghiệp.

Đề xuất cho phép ngân hàng thương mại trong nước mua lại trái phiếu

Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân thuộc Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính (Ban IV) mới đây đã có văn bản gửi Thủ tướng Chính phủ báo cáo kết quả khảo sát tình hình doanh nghiệp và một số đề xuất, tham mưu để hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế.

Theo đó, các đề xuất để doanh nghiệp tiếp cận được vốn vay được Ban IV nêu, một trong số đó là cho phép ngân hàng thương mại trong nước mua lại trái phiếu sắp tới hạn và xử lý như một dạng tín dụng đặc biệt do giá trị của lượng trái phiếu này đã vượt rất nhiều lần khả năng mua lại của các doanh nghiệp trong nước.

Khối lượng trái phiếu chậm thanh toán vào cuối năm nay

Trong bối cảnh hiện nay rất nhiều doanh nghiệp phát hành không thể thanh toán gốc và lãi trái phiếu đúng hạn thì đây là đề xuất đáng chú ý. Tính tới đầu tháng 5/2023, theo Fiin Ratings thống kê, số tổ chức phát hành chậm thực hiện nghĩa vụ nợ trái phiếu doanh nghiệp là 98. 

Công ty Chứng khoán HSC cho biết, bên cạnh các doanh nghiệp phát hành đã chậm thanh toán, đến nay có 110 doanh nghiệp phát hành có nguy cơ chậm thanh toán. Theo kịch bản cơ sở của HSC, vào cuối năm nay khối lượng trái phiếu chậm thanh toán có thể lên tới 77,4 nghìn tỷ đồng.

Chuyển rủi ro từ doanh nghiệp phát hành trái phiếu sang cho các nhà băng?

Về đề xuất cho phép các ngân hàng thương mại mua lại trái phiếu doanh nghiệp, TS. Châu Đình Linh - Giảng viên Đại học Ngân hàng TP.HCM đánh giá, đề xuất trên là giải pháp tình thế để những vấn đề của trái phiếu doanh nghiệp được đẩy về tương lai bằng cách chuyển rủi ro từ doanh nghiệp phát hành trái phiếu sang cho các nhà băng.

Ảnh minh họa. Nguồn ảnh: Internet.

Sẽ có một số vấn đề đặt ra với ngân hàng nếu như thực hiện việc trên. Đầu tiên, các trái phiếu doanh nghiệp sắp đến hạn phần lớn là “không có tài sản đảm bảo” và rủi ro không trả được nợ đúng hạn rất cao, vì thế chính là những khoản “nợ xấu” của ngân hàng, vậy ngân hàng sẽ giải quyết thế nào về trích lập dự phòng?

Câu hỏi đặt ra thêm nữa là, khi bỏ ra một khoản tiền để mua các loại trái phiếu doanh nghiệp kém chất lượng như vậy thì được lợi gì trong khi ngân hàng cũng là doanh nghiệp?

Chính vì vậy, ông Linh cho hay, đối với những trái phiếu này hầu như không có ngân hàng nào muốn mua lại. Tuy vậy, trong trường hợp đây là chủ trương lớn của Chính phủ và đòi hỏi sự chung tay của các bên thì có thể thực hiện bằng cách cho phép các nhà băng mua lại trái phiếu doanh nghiệp có tài sản đảm bảo.

T.S Nguyễn Hữu Huân - Trưởng bộ môn Thị trường tài chính thuộc Đại học Kinh tế TP.HCM cho hay, nhiều doanh nghiệp hiện không có khả năng mua lại trái phiếu của chính mình phát hành và cũng không có khả năng được cấp tín dụng để đảo nợ trái phiếu. Mà nếu đến hạn lại không trả được nợ cho trái chủ thì sẽ nhiều hệ lụy đáng ngại với cả lĩnh vực bất động sản (trái phiếu chậm trả nợ phần lớn là do doanh nghiệp bất động sản phát hành) và cả nền kinh tế. Vì vậy, việc đề xuất cho phép ngân hàng thương mại mua lại trái phiếu doanh nghiệp đến hạn là giải pháp tình thế để doanh nghiệp được ngân hàng cấp tín dụng, nên có thể xem xét thực hiện.

Thế nhưng, các trái phiếu doanh nghiệp này lại đa phần đều không có tài sản đảm bảo cùng với triển vọng phương án kinh doanh nhiều rủi ro nên việc mua lại khối trái phiếu này cũng là đi ôm một khối nợ xấu và chắc hẳn là các ngân hàng sẽ không muốn mua (trừ ngân hàng “sân sau” của các doanh nghiệp phát hành trái phiếu).

Theo phân tích đó, ông Huân cho hay, có hai cách có thể cân nhắc thực hiện. Một là, cho phép các ngân hàng thương mại mua lại trái phiếu doanh nghiệp một cách “có chọn lọc”, có nghĩa là đối với trái phiếu được mua cần đặt ra các tiêu chí nhất định như là có tài sản đảm bảo hoặc có phương án kinh doanh khả thi. Để ngăn tình trạng ngân hàng mua lại “vô tội vạ” tài sản xấu của doanh nghiệp “sân sau”, các tiêu chí trên cần phải rõ ràng và chặt chẽ. Cùng với đó, cho phép trái phiếu này được các nhà băng thế chấp trên thị trường tái chiết khấu, thị trường tái cấp vốn để khi rơi vào tình trạng kém thanh khoản có thể vay vốn.

Hai là, với các quy định cụ thể, Chính phủ có thể cân nhắc mua lại các trái phiếu doanh nghiệp có tài sản đảm bảo và chấp nhận “ngâm” 5 đến 10 năm chờ thị trường hồi phục trở lại. Đó cũng là cách để cung ứng vốn ra thị trường, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp.Trong giai đoạn khủng hoảng nợ dưới chuẩn năm 2008, cách mua lại tài sản “độc hại” này đã được Chính phủ Mỹ áp dụng, sau đó, khi thị trường hồi phục và có thanh khoản trở lại, Chính phủ Mỹ cũng thu được lợi nhuận khi bán ra. Tuy nhiên, cách làm trên cũng chỉ giải quyết được một phần vấn đề của thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Thị trường vẫn sẽ phải chấp nhận những mất mát, tổn thất nhất định. Với nhà đầu tư và các cơ quan làm chính sách, đây cũng là một bài học trong việc xây dựng một thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển bền vững.

Tạ Ngọc