Để đảm bảo việc quản lý thuế đối với hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản được chính xác, kịp thời, Tổng cục Thuế đề nghị cục thuế các địa phương phối hợp với cơ quan tài nguyên môi trường rà soát thông tin kê khai thuế đối với hoạt động khai thác khoáng sản trong năm của người nộp thuế.
Tổng cục Thuế đề nghị cục thuế các địa phương phối hợp với cơ quan tài nguyên môi trường
Thông tin từ phía Tổng cục Thuế cho biết, cơ chế phối hợp giữa cơ quan thuế, cơ quan Tài nguyên và Môi trường để quản lý hoạt động khai thác tài nguyên tại địa phương đã được quy định rõ tại khoản 6, Điều 5, Thông tư số 152/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế tài nguyên; Nghị định số 27/2023/NĐ-CP của Chính phủ quy định về phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản.
Theo đó, trong vòng 7 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông tin kê khai của người nộp thuế về sản lượng tài nguyên thực tế khai thác kê khai trong năm theo từng mỏ khi kết thúc năm tài chính do cơ quan Thuế chuyển đến, cơ quan Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm đối chiếu với sản lượng tài nguyên đã khai thác tại từng mỏ do đơn vị khai thác khai, nộp thuế với dữ liệu đã có tại cơ quan mình (cũng như thực hiện các biện pháp nghiệp vụ để xác định sản lượng khai thác thực tế của đơn vị trong trường hợp có chênh lệch) để chuyển thông tin cho cơ quan Thuế để xử lý theo quy định của Luật Quản lý thuế.
Trong vòng 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông tin chi tiết về khối lượng đất đá bóc, đất đá thải và khối lượng khoáng sản nguyên khai thực tế khai thác kê khai trong năm theo từng Giấy phép khai thác khoáng sản trên địa bàn do cơ quan Thuế chuyển đến, Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm đối chiếu số lượng đất đá bóc, đất đá thải và khối lượng khoáng sản nguyên khai thực tế khai thác theo từng Giấy phép do người nộp phí kê khai với dữ liệu đã có tại cơ quan mình (cũng như thực hiện các biện pháp nghiệp vụ để xác định sản lượng khai thác thực tế của đơn vị trong trường hợp có chênh lệch) để chuyển thông tin cho Cơ quan Thuế để xử lý theo quy định của Luật Quản lý thuế.
Để đảm bảo việc quản lý thuế đối với hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản được chính xác, kịp thời, Tổng cục Thuế đề nghị các cục thuế sau khi chuyển thông tin kê khai thuế đối với hoạt động khai thác khoáng sản trong năm của người nộp thuế, phải chủ động yêu cầu, đôn đốc cơ quan Tài nguyên và Môi trường trên địa bàn cung cấp thông tin về sản lượng tài nguyên, khối lượng đất đá bóc, đất đá thải và khối lượng khoáng sản nguyên khai thực tế khai thác của người nộp thuế để tổng hợp xử lý về thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế và các quy định pháp luật thuế có liên quan.
Khai thác khoáng sản luôn là lĩnh vực nhạy cảm, nhiều rủi ro
Theo ghi nhận, hoạt động khai thác khoáng sản luôn là lĩnh vực nhạy cảm, nhiều rủi ro. Công tác quản lý tài nguyên nói chung, quản lý thu ngân sách nói riêng đối với hoạt động khoáng sản còn rất nhiều bất cập, hiện tượng lãng phí, thất thoát tài nguyên, khai thác khoáng sản trái phép, trốn thuế, gây thất thu ngân sách nhà nước hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm.
Cách thức trốn thuế của các đối tượng rất phức tạp và tinh vi, với nhiều hình thức khác nhau như: khai báo sản lượng thấp hơn thực tế; khai báo chất lượng thấp hơn thực tế; không khai báo đầy đủ các kim loại quý hiếm thu hồi được; thiết lập giá bán thấp; kê khai khống các chi phí…
Ảnh minh họa.
Trước những hành vi nhức nhối khai thác khoáng sản trái phép, nhiều địa phương kiên quyết đình chỉ hoạt động, tước quyền sử dụng hoặc thu hồi giấy phép, đóng cửa mỏ, cải tạo, phục hồi môi trường đối với những khu vực khai thác không hiệu quả, gây ô nhiễm môi trường.
Bên cạnh đó, sẽ tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động khoáng sản, bảo đảm an toàn lao động. Đồng thời, triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp quản lý thuế và giám sát sản lượng khoáng sản thực tế đã khai thác. Cùng với đó, đấu tranh chống các hành vi trốn thuế, gian lận thuế, phí; khai thác khi chưa hoàn thành thủ tục, khai thác vượt công suất, khai thác vượt ra ngoài ranh giới khu vực được phép khai thác.
Theo quy định, trong vòng 7 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông tin kê khai của người nộp thuế về sản lượng tài nguyên thực tế khai thác kê khai trong năm theo từng mỏ khi kết thúc năm tài chính do cơ quan thuế chuyển đến, cơ quan tài nguyên và môi trường phải tiến hành ngay các biện pháp nghiệp vụ xác định số lượng thực tế. |