Cụ thể, tại Kết luận điều tra (giai đoạn 2) vụ án sai phạm xảy ra tại Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) và các đơn vị liên quan, Cơ quan điều tra (CQĐT) Bộ Công an chỉ rõ rằng vào khoảng năm 2018, Trương Mỹ Lan được cấp dưới báo cáo về tình trạng bế tắc của Ngân hàng SCB. Bà Lan đồng ý chủ trương, chỉ đạo phát hành trái phiếu khống để có nguồn xử lý nợ và giúp SCB vượt qua giai đoạn khó khăn.
Số tiền thu được từ phát hành trái phiếu, nhóm Trương Mỹ Lan không sử dụng đúng mục đích phát hành trái phiếu do đó hiện vẫn chưa thể khắc phục hậu quả. Ảnh minh họa. Nguồn ảnh: Internet.
Từ năm 2018 – 2020, bị can Trương Mỹ Lan cùng đồng phạm đã phát hành 25 gói trái phiếu khống (không có tài sản đảm bảo) thông qua 4 pháp nhân gồm: Công ty An Đông, Công ty Quang Thuận, Công ty Sunny World và Công ty Setra.
Loại trái phiếu phát hành của các doanh nghiệp trên là trái phiếu riêng lẻ với tổng giá trị của 25 gói trái phiếu là hơn 30.869 tỷ đồng. Đến hiện tại, số dư nợ còn hơn 30.081 tỷ đồng của hơn 35.000 nhà đầu tư. Với số tiền thu được, nhóm Trương Mỹ Lan không sử dụng đúng mục đích phát hành trái phiếu do đó hiện vẫn chưa thể khắc phục hậu quả.
Trong quá trình điều tra hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Trương Mỹ Lan và đồng phạm thông qua việc phát hành 25 gói trái phiếu nói trên, CQĐT đã tiến hành xác minh về trách nhiệm của cơ quan quản lý gồm: Ủy ban chứng khoán (UBCK) Nhà nước và Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX).
Kết quả cho thấy, Luật Chứng khoán không quy định về việc chào bán trái riêng lẻ (trái phiếu, cổ phiếu) của các doanh nghiệp không phải là công ty đại chúng. Việc thực hiện chào bán trái phiếu riêng lẻ của các công ty không phải đại chúng thực hiện theo quy định của tại Luật Doanh nghiệp và được hướng dẫn tại các Nghị định riêng.
Ở thời điểm nhóm Trương Mỹ Lan thực hiện hành vi phạm tội, Luật Chứng khoán quy định công ty đại chúng là doanh nghiệp đáp ứng một trong các điều kiện là đã chào bán cổ phiếu ra công chúng; có cổ phiếu được niêm yết; có ít nhất 100 cổ đông, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và có vốn điều lệ đã góp từ 10 tỷ đồng trở lên.
Những công ty An Đông, Quang Thuận, Sunny World và Setra không phải là công ty đại chúng vì vậy không thuộc phạm vi quản lý, giám sát, thanh tra và chấp thuận cho phép phát hành trái phiếu của UBCK cùng HNX. Pháp luật cũng không có quy định nào buộc UBCK hoặc HNX giám sát việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ và sử dụng tiền đúng mục đích phát hành.
Từ lúc xảy ra vụ án đến nay, UBCK Nhà nước và HNX đã có hoạt động thanh tra, kiểm tra các công ty chứng khoán liên quan việc tư vấn, phát hành trái phiếu cho nhóm thuộc Vạn Thịnh Phát và nhiều doanh nghiệp vi phạm đã bị xử phạt hành chính.
Kết luận điều tra vụ án Vạn Thịnh Phát và các đơn vị liên quan (gian đoạn 2) khẳng định rằng chưa có thông tin, tài liệu, chứng cứ thể hiện sự thông đồng, bảo kê hoặc biết sai phạm nhưng bỏ mặc cho 4 doanh nghiệp phát hành trái phiếu của UBCKNN và HNX.
CQĐT cũng cho biết, các quy định về vai trò, trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực phát hành trái phiếu như Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, UBCK Nhà nước… vẫn còn chung chung, chưa chặt chẽ; chưa được cụ thể về việc kiểm tra, giám sát quá trình tạo lập trái phiếu và sử dụng tiền bán trái phiếu đúng mục đích.
Chính vì vậy, CQĐT chưa có căn cứ xem xét trách nhiệm đối với cá nhân, tổ chức liên quan thuộc UBCK Nhà nước và HNX trong việc phát hành trái phiếu của nhóm công ty An Đông, Quang Thuận, Sunny World, Setra, liên quan đến Trương Mỹ Lan cùng đồng phạm.
Tại kết luận điều tra, CQĐT cũng kiến nghị các công ty thuộc Vạn Thịnh Phát còn dư nợ trái phiếu, có tài sản đảm bảo (ngoài 25 gói trái phiếu bị xác định lừa đảo trong giai đoạn 2) cần phối hợp với Công ty Chứng khoán TVSI và Ngân hàng SCB nhanh chóng xây dựng giải pháp đảm bảo nghĩa vụ thanh toán cho các trái chủ.
Bên cạnh đó, UBCK Nhà nước và HNX cần có biện pháp giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc trả nợ trái phiếu. Đồng thời, CQĐT kiến nghị Bộ Tài chính, UBCK Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền tham mưu sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật liên quan đến phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Từ đó, đảm bảo chặt chẽ về các điều kiện phát hành trái phiếu, có biện pháp kiểm tra, giám sát việc sử dụng nguồn vốn huy động và nguồn lực đảm bảo nghĩa vụ thanh toán của các tổ chức phát hành.
Theo Tạ Ngọc/ Diễn đàn sự thật
https://www.facebook.com/groups/4054824701243922/posts/7937513339641686