Việt Nam - Quốc gia hứng chịu không ít tác động của biến đổi khí hậu
Phát biểu tại Diễn đàn Nghiên cứu chính sách Việt Nam-Nhật Bản, bà Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM cho biết, trong những năm qua, thế giới đã phải đối mặt với những thách thức lớn, nghiêm trọng về môi trường, biến đổi khí hậu. Bối cảnh dịch bệnh COVID-19 càng khiến các nền kinh tế trên thế giới chung nhận thức về việc phải hành động nhanh và quyết liệt hơn nhằm bảo vệ môi trường, hướng tới phát triển bền vững.
Là một nền kinh tế đang phát triển và có độ mở cao, Việt Nam cũng hứng chịu không ít tác động trực tiếp và gián tiếp từ biến đổi khí hậu toàn cầu. Dù đạt được nhiều thành tựu về phát triển kinh tế-xã hội song Việt Nam đang phải đối mặt với không ít thách thức về cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu.
“Những thách thức này trở nên phức tạp hơn khi mà Việt Nam đang tiếp tục quá trình gia tăng dân số, đô thị hóa, và công nghiệp hóa, trong khi còn chậm chuyển đổi từ cách tiếp cận kinh tế tuyến tính truyền thống sang cách tiếp cận đa chiều, hiện đại, kéo theo hệ lụy ngày càng nghiêm trọng đối với nguồn cung tài nguyên (bao gồm đất đai), lượng chất thải lớn, an ninh môi trường và an ninh nguồn nước,” bà Minh nói.
Để đạt được mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050 như đã cam kết tại COP26, Việt Nam sẽ cần một khoản đầu tư lên tới 600 tỷ USD. (Ảnh minh họa)
Bà Trần Thị Hồng Minh cũng đánh giá cao sự chủ động của Việt Nam trong việc đề ra nhiều giải pháp thích ứng, giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu. Tại Hội nghị COP26, Việt Nam đã có những cam kết mạnh mẽ; trong đó bao gồm đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050.
Một loạt các cam kết quan trọng đã được các nền kinh tế, kể cả các nền kinh tế đang phát triển, đưa ra tại Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu vào các năm 2021 và 2022 (COP26 và COP27). Bên cạnh đó là các khung khổ, chương trình hành động gắn với cải cách cơ cấu và phục hồi xanh, phát triển kinh tế sinh học - tuần hoàn - xanh, kinh tế tuần hoàn… trong khung khổ APEC, ASEAN.
Ngoài ra, các cam kết về phát triển bền vững cũng đã được đưa vào các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới như CPTPP (Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương) và EVFTA (Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam -EU) để thực hiện những cam kết đầy tham vọng đó.
Cụ thể, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một loạt văn bản chính sách liên quan đến tăng trưởng xanh, như: Quyết định số 1658/QĐ-TTg năm 2021 phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và Quyết định số 882/QĐ-TTg năm 2022 phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030; Quyết định số 687/QĐTTg năm 2022 phê duyệt Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn; Nghị định số 08/2022/NĐ-CP năm 2022 hướng dẫn Luật Bảo vệ môi trường... Cùng với đó, Việt Nam cũng tích cực hợp tác với các đối tác nước ngoài nhằm thúc đẩy các lĩnh vực tăng trưởng xanh.
Khoản chi để trung hòa carbon là rất lớn
Ông Kazuo Kusakabe - Trưởng đại diện Toshiba châu Á - Thái Bình Dương, Văn phòng Hà Nội nhận định: Biến đổi khí hậu đang là thách thức đối với thế giới, trong đó có Việt Nam trong thời điểm hiện tại. Theo đó, để đạt được mục tiêu trung hoà carbon vào năm 2050 như mục tiêu đề ra, Việt Nam phải cần đến một khoản đầu tư lên tới 600 tỷ USD.
“Đây là một khoản vốn rất lớn mà Chính phủ Việt Nam hay các ngân hàng, các tổ chức định chế tài chính không đủ để cung cấp” – ông Kazuo Kusakabe cho biết.
Theo chuyên gia kinh tế, TS Võ Trí Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh, muốn đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Việt Nam “không thể đi một mình” mà cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế, và có những giải pháp huy động nguồn vốn từ tư nhân trong nước và quốc tế để hoàn thành mục tiêu này.
Trên thực tế, để hoá giải những thách thức biến đổi khí hậu, thời gian qua, Việt Nam đã có những chương trình hợp tác với Nhật Bản nói chung và hợp tác với Nhật Bản trong lĩnh vực tăng trưởng xanh nói riêng, những hoạt động này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam.
Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả, thành tựu quan trọng trong hợp tác với Nhật Bản, đặc biệt trong các lĩnh vực đầu tư, xuất nhập khẩu, phát triển hạ tầng bền vững, phát triển nguồn nhân lực.
Cụ thể, theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Nhật Bản luôn là một trong số những nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất ở Việt Nam. Nhật Bản và Việt Nam còn nhiều tiềm năng để thúc đẩy hợp tác về tăng trưởng xanh, khi hai nước đều là thành viên của CPTPP đã đi vào thực hiện, hay Khung khổ Kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (IPEF) đang trong quá trình đàm phán. Cả CPTPP và IPEF cùng có những nội dung hợp tác liên quan đến tăng trưởng xanh.
Bên cạnh đó, một số lĩnh vực chính có nhiều tiềm năng hợp tác giữa Nhật Bản và Việt Nam bao gồm: Thiết bị điện và điện tử, kiến trúc bằng gỗ, điện gió, điện sinh khối, chia sẻ điện mặt trời, nuôi trồng thủy sản hữu cơ, canh tác hữu cơ…