Thông tin này được Bộ trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên thừa ủy quyền Thủ tướng, báo cáo Quốc hội về thực hiện chất vấn, nghị quyết từ đầu nhiệm kỳ.
Theo Bộ trưởng, đây là các dự án chiếm nhiều đất, ảnh hưởng tới môi trường - xã hội hoặc hiệu quả kinh tế thấp. Các dự án còn lại trong quy hoạch hầu hết đã được rà soát kỹ, cập nhật vào Quy hoạch điện VIII để đầu tư tiếp.
Trước đó, Bộ Công Thương đã có đánh giá về tổng thể các hồ, đập vận hành an toàn, ổn định tại thời điểm kiểm tra trước mùa lũ. Kết quả cho thấy, sau thanh tra, kiểm tra tại các hồ đập, có một số vấn đề liên quan tới điều chỉnh quy mô, thay đổi thiết kế bản vẽ kỹ thuật thi công so với hồ sơ thiết kế công trình thủy điện. Tuy nhiên, việc điều chỉnh thiết kế của một số dự án thủy điện vừa qua chủ yếu là điều chỉnh cục bộ kết cấu các hạng mục công trình, không làm thay đổi mục tiêu, nhiệm vụ trong quy hoạch.
Ảnh mnh
Báo cáo cũng cho biết hiện cả nước thiếu gần 21.000 tỷ đồng để kéo điện về nông thôn, hải đảo. Theo đó, chương trình cấp điện cho các vùng nói trên tới năm 2025 được trình Chính phủ xem xét, phê duyệt từ tháng 6/2021 với tổng vốn gần 29.800 tỷ đồng. Tuy nhiên, sau gần hai năm, chương trình này vẫn chưa được phê duyệt, với lý do chưa có giải pháp thu xếp khoảng 20.900 tỷ đồng (trên 70% nhu cầu vốn của chương trình).
Liên quan đến vốn cho các dự án kéo điện về nông thôn, miền núi, Bộ Công Thương kiến nghị Chính phủ phê duyệt chương trình có sử dụng vốn của các tổ chức tín dụng, vốn vay ODA ưu đãi của các tổ chức quốc tế như WB, ADB và các nguồn lực từ xã hội hóa. Theo số liệu của Bộ Công Thương, hiện có khoảng 17 triệu hộ dân nông thôn, vùng sâu, xa, biên giới được dùng điện lưới quốc gia. Riêng tại khu vực nông thôn, tỷ lệ hộ dân được sử dụng điện đạt gần 99,3%.
Cơ cấu nguồn điện đến năm 2030
Theo Quy hoạch điện VIII, đến năm 2030, tổng công suất các nhà máy điện phục vụ nhu cầu trong nước là 150.489 MW (không bao gồm xuất khẩu, điện mặt trời mái nhà hiện hữu, năng lượng tái tạo để sản xuất năng lượng mới). Trong đó, điện khí dự kiến là nguồn điện mũi nhọn trong giai đoạn 2021-2030.
Với điện khí, dự kiến là nguồn điện mũi nhọn trong giai đoạn 2021-2030, với tăng trưởng kép đạt 26% - mức cao nhất trong số các nguồn điện chính và chiếm 27% tổng công suất nguồn điện.
Cụ thể, nguồn nhiệt điện khí trong nước đạt 14.930 MW (chiếm 9,9%); Nhiệt điện LNG là 22.400 MW (chiếm 14,9%); Nguồn điện nhập khẩu đạt khoảng 5.000 MW (chiếm 3,3%), nhưng có thể lên đến 8.000 MW.
Đáng chú ý, nhằm đẩy nhanh tiến độ giảm phát thải, điện khí sẽ phải chuyển đổi một phần nhiên liệu đầu vào sang đốt kèm với hydro sau 20 năm hoạt động.
Về điện gió, với tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo lớn của Việt Nam, phát triển điện gió sẽ là mục tiêu quan trọng nhất trong cả ngắn và dài hạn. Tăng trưởng kép 25% trong giai đoạn 2021-2030.
Phát huy tối đa tiềm năng kỹ thuật điện gió ngoài khơi (khoảng 600.000 MW) để sản xuất điện và năng lượng mới. Ước tính công suất nguồn điện gió ngoài khơi để sản xuất năng lượng mới khoảng 15.000 MW đến năm 2035 và khoảng 240.000 MW đến năm 2050.
Việt Nam dự kiến đưa vào vận hành 6,000 MW điện gió ngoài khơi đầu tiên trong giai đoạn 2021-2030. Quy mô có thể tăng thêm trong trường hợp công nghệ phát triển nhanh, giá điện và chi phí truyền tải hợp lý.
Đến năm 2030, công suất điện gió trên bờ đạt 21.880 MW (tổng tiềm năng kỹ thuật của Việt Nam khoảng 221.000 MW).
Điện mặt trời không quá suôn sẻ. Sau giai đoạn phát triển ồ ạt 2020-2021, dự kiến sẽ hạn chế phát triển, tăng trưởng công suất điện mặt trời sẽ chậm lại từ nay đến năm 2030. Dự kiến, tổng công suất điện mặt trời đạt 12.836 MW (8,5%), không bao gồm điện mặt trời mái nhà hiện hữu. Tuy nhiên, Quy hoạch điện VIII vẫn khuyến khích phát triển không giới hạn điện mặt trời với mục đích tự tiêu thụ
Tiềm năng điện mặt trời của Việt Nam khoảng 963.000 MW (mặt đất khoảng 837.400 MW, mặt nước khoảng 77.400 MW và mái nhà khoảng 48.200 MW).
Từ nay đến năm 2030, tổng công suất các nguồn điện mặt trời dự kiến tăng thêm 4.100 MW. Trong đó, ưu tiên và có chính sách đột phá để thúc đẩy phát triển điện mặt trời mái nhà của người dân và mái công trình xây dựng, nhất là các khu vực có nguy cơ thiếu điện như miền Bắc và điện mặt trời tự sản, tự tiêu.
Đến năm 2030, công suất các nguồn điện loại hình này ước tính tăng thêm 2.600 MW. Loại hình nguồn điện này được ưu tiên phát triển không giới hạn công suất, với điều kiện giá thành hợp lý và tận dụng lưới điện sẵn có, không phải nâng cấp.
Điện sinh khối, ưu tiên, khuyến khích phát triển các loại hình điện sinh khối (tiềm năng khoảng 7.000 MW), điện sản xuất từ rác, chất thải rắn (tiềm năng khoảng 1.800 MW) nhằm tận dụng phụ phẩm nông, lâm nghiệp, chế biến gỗ, thúc đẩy trồng rừng, xử lý môi trường ở Việt Nam.
Năm 2030, công suất các nguồn điện này đạt 2.270 MW, trường hợp đủ nguồn nguyên liệu, hiệu quả sử dụng đất cao, có yêu cầu xử lý môi trường, hạ tầng lưới điện cho phép, giá điện và chi phí truyền tải hợp lý thì phát triển quy mô lớn hơn
Đối với thủy điện, tăng trưởng kép theo Quy hoạch điện VIII chỉ là 1% trong giai đoạn 2021-2050 do nguồn điện này về cơ bản đã gần hết tiềm năng khai thác, chỉ còn dư địa để phát triển các dự án thủy điện vừa và nhỏ. Ở khía cạnh khác, Quy hoạch điện VIII mạnh dạn đề cao hơn việc phát triển các nguồn điện lịnh hoạt khác như thủy điện tích năng, pin lưu trữ, và các nguồn điện sinh khối. Với sự bổ trợ này, nguồn điện mới này sẽ củng cố sự ổn định của hệ thống điện Việt Nam trong dài hạn
Khai thác tối đa tiềm năng các nguồn thủy điện (tổng tiềm năng của Việt Nam khoảng 40.000 MW) trên cơ sở bảo đảm môi trường, bảo vệ rừng, an ninh nguồn nước. Nghiên cứu mở rộng có chọn lọc các nhà máy thủy điện hiện có để dự phòng công suất; khai thác thủy điện trên các hồ thủy lợi, hồ chứa nước để tận dụng nguồn thủy năng. Tới năm 2030, tổng công suất các nguồn thủy điện, bao gồm cả thủy điện nhỏ dự kiến đạt 29.346 MW, sản xuất 101,7 tỷ kWh, có thể phát triển cao hơn nếu điều kiện kinh tế - kỹ thuật cho phép.
Về điện than, nằm trong nhóm bước vào hồi kết, khi Quy hoạch điện VIII chính thức loại bỏ tổng cộng 13,220 MW điện than. Hiện tại, phương án phát triển nguồn cũng đã tính đến trường hợp 6,800 MW được bổ sung quy hoạch nhưng có rủi ro không triển khai được do những khó khăn về thu xếp vốn, bù đắp bằng việc tiếp tục nâng cao tỷ trọng điện gió và điện khí.
Trong thời gian tới, các nhà máy điện than trên 40 năm sẽ bị loại bỏ, trong khi các nhà máy khác sẽ phải nghiên cứu đốt kèm thêm ammoniac sau 20 năm hoạt động. Dự kiến, công suất điện than sẽ tăng 2% trong giai đoạn 2021-2030 và giảm 1% trong giai đoạn 2030-2050, tỷ trọng giảm từ 19% tổng công suất trong năm 2030.
Từ nay đến năm 2030, nguồn nhiệt điện than dự kiến đạt 30.127 MW (chiếm 20,0%) trừ một số dự án đang triển khai. Tuy nhiên với các nguồn điện than đang gặp khó khăn trong việc triển khai sẽ cập nhật quá trình xử lý để thay thế bằng các nguồn điện LNG hoặc năng lượng tái tạo
Bên cạnh các nguồn điện truyền thống và năng lượng tái tạo, nguồn điện đến năm 2030 sẽ có thêm pin lưu trữ 300 MW (chiếm 0,2%); Nguồn điện linh hoạt 300 MW (chiếm 0,2%); Nguồn điện đồng phát, sử dụng nhiệt dư, khí lò cao, các sản phẩm phụ của dây chuyền công nghệ trong các cơ sở công nghiệp đạt 2.700 MW (1,8%), quy mô có thể tăng thêm phù hợp với khả năng của các cơ sở công nghiệp.
Nhìn từ Quy hoạch điện VIII, có thể thấy cơ cấu nguồn điện Việt Nam đến năm 2030 có nhiều thay đổi theo hướng ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng sạch; giảm nhiệt điện than. Trong đó, nhiệt điện khí được coi là “trụ đỡ” cơ cấu nguồn điện của Việt Nam trong giai đoạn này.
Nhìn một cách tổng thể, Quy hoạch điện VIII đã thống nhất được một phương án “đủ và xanh”, nhưng có thể khó thực hiện hơn Quy hoạch điện VII điều chỉnh do sự phát triển mạnh mẽ của các nguồn điện giá cao như điện khí và điện năng lượng tái tạo, trong khi các công nghệ thay thế nhiên liệu đầu vào như hydro, ammoniac cho các nhà máy nhiệt điện vẫn chỉ đang ở giai đoạn nghiên cứu và thử nghiệm.
Quy hoạch điện VIII cũng khuyến khích các thành phần kinh tế để phát triển nhanh ngành điện trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh và thực hiện cơ chế thị trường về giá bán điện, bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia đầu tư, sử dụng điện và đáp ứng yêu cầu phát triển của các vùng, miền.
Theo Tạ Nhị/Diễn Đàn Sự Thật
https://www.facebook.com/groups/4054824701243922/posts/6963216567071373/