Bích Ngọc ·
24 tuần trước
 10004

Sở hữu chéo Ngân hàng - Bất động sản: Thao túng dòng chảy tín dụng, rót vốn vào sân sau

Viện Nghiên cứu bất động sản Việt Nam (VIRES) cho hay, có thể tình trạng sở hữu chéo sẽ khiến dòng chảy tín dụng (huy động ngắn hạn) bị hướng vào những doanh nghiệp rủi ro, không có năng lực trả nợ.

Mới đây, Viện Nghiên cứu bất động sản Việt Nam (VIRES) công bố báo cáo nghiên cứu "Đổi mới cơ chế phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, một vài hàm ý với thị trường bất động sản".

Theo đó, các chuyên gia VIRES cho rằng,  thời gian qua mục tiêu nâng cao khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, doanh nghiệp đã tốt dần lên, tuy vậy vẫn chưa được như kỳ vọng. 

Ảnh minh họa. Nguồn ảnh: Internet.

Sau khi phân tích một số yếu tố như thanh khoản hệ thống ngân hàng cùng điều kiện cho vay, năng lực hấp thụ của nền kinh tế và doanh nghiệp và lãi suất, các chuyên gia kết luận, thời gian qua chính sách tiền tệ chưa phát huy hiệu quả, lỗi không nằm ở chính sách tiền tệ.

Theo đánh giá của VIRES, không gian cho chính sách tiền tệ không còn nhiều nếu không muốn nói là chính sách tiền tệ đang quá sức.

Theo các số liệu về tăng trưởng tín dụng, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế đã cho thấy thực trạng của các doanh nghiệp và nền kinh tế hiện nay đã vượt khả năng của chính sách tiền tệ. Sự hồi phục về tốc độ tăng trưởng tín dụng theo đó cũng không thể chỉ xuất phát từ nỗ lực duy nhất của ngành ngân hàng.

Vì vậy, VIRES đã đưa ra một số giải pháp cụ thể để hóa giải nghịch lý nền kinh tế khát vốn nhưng khó hấp thụ vốn.

Thứ nhất là tăng cường mở rộng tài khóa, kết hợp hài hòa với chính sách tiền tệ. Hiện nay, muốn chính sách tiền tệ có hiệu quả thì trước tiên phải tiếp tục mở rộng tài khóa, tạo được việc làm cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải hoạt động, người dân có việc làm thì mới có thể lưu thông tiền tệ.

Thứ hai là cải cách môi trường đầu tư kinh doanh. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ sẽ phát huy hiệu quả khi và chỉ khi các doanh nghiệp được gỡ bỏ các rào cản về thủ tục đầu tư, kinh doanh.

Thứ ba là giải quyết những vấn đề then chốt của hệ thống tín dụng, nhất là tình trạng "sở hữu chéo".

Chuyên gia VIRES cho rằng, giải pháp tăng cường mở rộng tài khóa kết hợp hài hòa với chính sách tiền tệ chỉ phát huy hiệu quả và góp phần tăng khả năng hấp thụ vốn cho nền kinh tế khi và chỉ khi chính sách tiền tệ phải điều tiết hợp lý, kiểm soát được mục đích sử dụng vốn, kết hợp giám sát và minh bạch dòng chảy tín dụng, qua đó nâng cao chất lượng tín dụng và giữ vững an toàn hệ thống.

Tại các ngân hàng thương mại, khoản gửi tiết kiệm của người dân hầu hết đều có kỳ hạn ngắn. Nguồn vốn trung và dài hạn của ngân hàng không đủ để đáp ứng nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do đó phải sử dụng nguồn vốn huy động ngắn hạn để cho vay kỳ hạn dài. Điều này tiềm ẩn rủi ro lớn đối với thanh khoản hệ thống ngân hàng.

NHNN đã đề ra lộ trình giảm tỷ lệ sử dụng nguồn vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Theo VIRES, với tính chất của một nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào tín dụng ngân hàng, để đảm bảo an toàn vốn cho hệ thống tài chính quốc gia, việc giảm dần tỷ lệ này là yêu cầu bắt buộc.

Tuy vậy, để tránh đổ vỡ dây chuyền trong bối cảnh nền kinh tế, nhất là lĩnh vực có tính đầu kéo như bất động sản còn nhiều khó khăn và không triệt tiêu cơ hội phục hồi của doanh nghiệp, thay vì "ngăn sông" cần hướng đến "nắn dòng" tín dụng.

Theo các chuyên gia, không nên áp dụng chính sách siết tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn chung cho toàn thị trường. Các chuyên gia VIRES cho rằng cần khẩn trương xây dựng tiêu chí đánh giá phân loại phân khúc bất động sản dựa vào tiềm năng, thanh khoản của thị trường làm cơ sở xem xét áp dụng hệ số rủi ro phù hợp, thay vì đánh đồng ở mức 200% như hiện nay.

Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế giám sát mục đích sử dụng vốn để vốn tín dụng đi vào phân khúc, dự án lành mạnh, bền vững, đảm bảo hiệu quả và nâng cao chất lượng tín dụng, tránh tình trạng dòng chảy tín dụng đi sai hướng.

Thực tế, tình trạng sở hữu chéo giữa hệ thống tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp trong lĩnh vực có độ rủi ro cao với biểu hiện thao túng dòng chảy tín dụng, sử dụng vốn sai mục đích đang có tác động xấu đến chất lượng tín dụng, làm hệ thống gia tăng rủi ro. Tình trạng sở hữu chéo có thể khiến dòng chảy tín dụng (huy động ngắn hạn) bị hướng vào những doanh nghiệp rủi ro, không có năng lực trả nợ. Còn những doanh nghiệp chân chính muốn vay thì lại không tiếp cận được.

Luật các tổ chức tín dụng quy định các tỷ lệ về giới hạn sở hữu cổ phần của các cá nhân, tổ chức và người có liên quan để tăng sự an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Chuyên gia cho rằng điều này chỉ kiểm soát được về mặt hồ sơ, trên thực tế, các cổ đông có thể sử dụng nhiều cách thức, thông qua các mối quan hệ không bị giới hạn theo quy định tại Luật để gián tiếp gia tăng tỷ lệ sở hữu cổ phần thực tế, nắm quyền chi phối tại các tổ chức tín dụng.

Việc tiếp tục quy định giảm tỷ lệ sở hữu tối đa của một cá nhân xuống (từ 5% xuống 3% vốn điều lệ), sở hữu của một cổ đông từ tổ chức giảm (từ 15% xuống 10%), hay nhóm cổ đông liên quan giảm (từ 20% xuống 15%) tại Dự thảo sửa đổi Luật các tổ chức tín dụng vì thế sẽ không có nhiều ý nghĩa để hạn chế sở hữu chéo.

VIRES cho rằng để kiểm soát sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng thì yếu tố hàng đầu là phải xác định được cá nhân/tổ chức là chủ sở hữu thực sự của ngân hàng.

Theo đó, khuôn khổ pháp lý cần thiết kế để xác định được cá nhân/tổ chức nắm quyền chi phối, ảnh hưởng đến việc ra quyết định trong hoạt động của ngân hàng đó, tức là làm minh bạch thông tin của tất cả các cá nhân, tổ chức là cổ đông của ngân hàng thương mại thay vì giảm tỷ lệ sở hữu.

Ngoài ra, kiểm soát tình trạng sở hữu chéo hiện nay đòi hỏi nhiều hơn năng lực thanh tra, giám sát và nhìn nhận các mối quan hệ chồng chéo trong việc sở hữu và cho vay, nhất là giữa ngân hàng và doanh nghiệp bất động sản của NHNN.

Theo Tạ Ngọc/ Diễn đàn sự thật

https://www.facebook.com/groups/4054824701243922/posts/7116908881702140/?